Kinh Phật Tự Thuyết – Chương 1 Phẩm Bồ Đề
Phẩm Bồ Ðề diễn tả đức Phật khi mới thành đạo, ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề, suy tưởng đến lý 12 nhân duyên, thuận chiều và nghịch chiều rồi nói lên cảm hứng.
Tiểu Bộ Kinh tập I – Kinh Pháp Cú
Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Tiểu Bộ Kinh tập I – Kinh Tiểu Tụng
Quyển nầy gồm 9 bài kinh, bao gồm các đề tài cơ bản cho những vị xuất gia bắt đầu đời sống tu hành tại các tu viện. Tuy nhiên, nhiều đoạn kinh cũng được dùng để giới thiệu các căn bản Phật Pháp cho các cư sĩ.
[SN.V.12] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sự Thật
Tương ưng Sự thật (Saccasaṃyutta). Tương ưng này lược thuyết, quảng thuyết các phương diện khác nhau của bốn chân lý cao thượng, bao gồm cả bài pháp quan trọng đầu tiên gọi là Kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattanasutta) (S. V. 420).
[SN.V.11] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Dự Lưu
Tương ưng Dự lưu (Sotāpattisaṃyutta). Khi một hành giả thành tựu niềm tịnh tín bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và giới, hành giả đó thành tựu quả vị Dự lưu (S. V. 342). Dự lưu là Thánh vị đầu tiên trong bốn Thánh quả. Đạt được quả vị này, hành giả có thể tự tuyên bố về mình: “Ta đã đoạn tận địa ngục, ta đã đoạn tận loài bàng sanh, ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ, ta đã đoạn tận ác xứ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự Lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ” (S. V. 358). Cũng trong Tương ưng này, đức Phật đưa ra định nghĩa thế nào là người cư sĩ: “Ai quy y Phật, này Mahānāma, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahānāma, là người cư sĩ” (S. V. 395).
[SN.V.10] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra
Tương ưng Hơi thở vô, hơi thở ra (Ānāpānasaṃyutta). Đây là pháp thiền tập với nhiều diệu dụng vì “ngay trong hiện tại có thể chứng đắc Chánh trí, nếu còn dư y thì chứng quả Bất lai” (S. V. 313). Duyên khởi pháp hành này bắt nguồn từ nhiều vị Tỷ-kheo sau khi tu pháp quán bất tịnh, đã nảy sinh sự chán ghét thân mình cùng cực nên có 30 vị Tỷ-kheo đã tự sát trong một ngày (S. V. 320). Từ thực tế đó, đức Phật đã dạy pháp hành này với sự khẳng định chắc chắn: “Này các Tỷ-kheo, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức” (S. V. 320). Không những vậy, trong một trường hợp khác, đức Phật tái khẳng định: “Này các Tỷkheo, ai muốn nói một cách chơn chánh, đây là Thánh trú, đây là Phạm trú, đây là Như Lai trú, người ấy nói một cách chơn chánh, phải nói định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như Lai trú” (S. V. 325).
[SN.V.09] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thiền
Tương ưng Thiền (Jhānasaṃyutta). Tương ưng này đề cập về tứ thiền và những ví dụ liên quan nhằm làm sáng tỏ tứ thiền. Nhờ tu tập thuần thục và thành tựu tứ thiền nên năm thượng phần kiết sử được thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận (S. V. 309).
[SN.V.08] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Anuruddha
Tương ưng Anuruddha (Anuruddhasaṃyutta). Tương ưng này đề cập đến tư duy, sự thực hành và giảng thuyết của Tôn giả Anuruddha đối với bốn niệm xứ. Thậm chí gặp lúc bệnh tật, nhờ quán bốn niệm xứ nên khổ thọ về thân có khởi lên cũng không ảnh hưởng đến tâm (S. V. 302).
Thứ chín, Tương ưng Thiền (Jhānasaṃyutta). Tương ưng này đề cập về tứ thiền và những ví dụ liên quan nhằm làm sáng tỏ tứ thiền. Nhờ tu tập thuần thục và thành tựu tứ thiền nên năm thượng phần kiết sử được thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận (S. V. 309).
[SN.V.07] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Như Ý Túc
Tương ưng Như ý túc (Iddhipādasaṃyutta). “Ở đây, này các Tỷkheo, Tỷ-kheo tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tâm định tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là bốn như ý túc, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa từ bờ bên này đến bờ bên kia” (S. V. 254). “Và do tu tập, do làm cho sung mãn bốn như ý túc này, Như Lai được gọi là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác” (S. V. 257).
[SN.V.06] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Chánh Cần
Tương ưng Lực (Balasaṃyutta). “Có năm lực này, này các Tỷkheo. Thế nào là năm? Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm lực” (S. V. 249). Nhờ tu tập năm lực này đến mức thuần thục sẽ hướng hành giả xuôi về Niết-bàn.