[SN.III.08] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Loài Rồng
Tương ưng Loài rồng (Nāgasaṃyutta), Tương ưng Kim Sí điểu (Supaṇṇasaṃyutta), Tương ưng Càn-thát-bà (Gandhabbakāyasaṃyutta) và Tương ưng Thần mây (Valāhakasaṃyutta) trình bày về những cách sinh ra, sự khác biệt giữa các chúng sanh đặc thù này, cũng như do nhân duyên gì để sanh về các loài ấy. Trong những Tương ưng này, bên cạnh lời dạy của đức Phật còn chuyên chở những thông tin thuộc tín niệm văn hóa, triết học của xã hội Ấn Độ cổ đại.
[SN.III.07] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sàriputta
Thứ bảy, Tương ưng Sāriputta (Sāriputtasaṃyutta) mô tả quá trình tuần tự nhập và xuất chín định thứ đệ, từ Sơ thiền cho đến Diệt thọ tưởng định của Tôn giả Sāriputta (S. III. 235-238). Cũng trong Tương ưng này, nữ du sĩ Sūcimukhī đã cật vấn Tôn giả Sāriputta về mười cách ăn và được Tôn giả giải thích đầy đủ (S. III. 238).
[SN.III.06] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Phiền Não
Thứ sáu, Tương ưng Phiền não (Kilesasaṃyutta). Tương ưng này định danh tùy phiền não và các phương diện khác của tùy phiền não (S. III. 232).
[SN.III.05] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sanh
Thứ năm, Tương ưng Sanh (Uppādasaṃyutta). Sanh (uppāda) nghĩa là sự sanh, sự trú, sự thành, sự xuất hiện… được trình bày theo nguyên tắc duyên sanh. Cụ thể như: “Này các Tỷ-kheo, sự sanh, sự trú, sự thành, sự xuất hiện của mắt là sự sanh của khổ, sự trú của bệnh hoạn, sự xuất hiện của già chết” (S. III. 228). Sự sanh khởi của các căn còn lại cũng tương tự như vậy.
[SN.III.04] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Nhập
Thứ tư, Tương ưng Nhập (Okkantasaṃyutta). Nhập ở đây mang nghĩa là đi vào, được sanh vào. Ở đây, những ai có lòng tin, có tín giải, biết chắc rằng sáu căn đều vô thường, biến hoại thì “Vị ấy được gọi là tùy tín hành, đã nhập chánh tánh, đã nhập chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu” (S. III. 225). Các kinh trong Tương ưng này chỉ là sự mở rộng về sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu thọ…
[SN.III.03] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Kiến
Thứ ba, Tương ưng Kiến (Diṭṭhisaṃyutta) đề cập đến các loại kiến chấp của ngoại đạo. Điều đặc biệt nhất trong Tương ưng này là đã nêu dẫn quan điểm triết học về bảy thân (sattime kāyā) của Pakudha Kaccāyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên), vị giáo chủ của một trong sáu trường phái triết học ở thời đức Phật (S. III. 211).
[SN.III.02] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Radha
Thứ hai, Tương ưng Rādha (Rādhasaṃyutta). Trong Tương ưng này, đức Phật đã dùng nhiều phương cách, nhiều ví dụ để dạy cho Tôn giả Rādha đi từ chánh quán cho đến Niết-bàn (S. III. 188). Tương ưng này nêu dẫn định nghĩa về chúng sanh (S. III. 189) cũng như về sợi dây tái sanh (bhavanetti) (S. III. 190). Các pháp như vô thường, khổ, vô ngã… cũng được đức Phật tuần tự giảng cho Tôn giả Rādha.
[SN.III.01] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Uẩn
Tương ưng Uẩn chủ yếu đề cập đến năm uẩn và những liên hệ xung quanh năm uẩn này. Theo đức Phật, thân ngũ uẩn là gánh nặng (S. III. 25), là bất toàn, là khổ não: “Ai mang cái thân này, lại tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong một giây phút, người ấy phải là người ngu” (S. III. 1). “Năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản” (S. III. 100). Vì vậy, không có gì tốt đẹp khi cố níu kéo, chấp giữ thân năm uẩn này: “Ai chấp trước, này Tỷ-kheo, người ấy bị ma trói buộc, ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma” (S. III. 73).
[SN.II.10] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Tỷ Kheo
Thứ mười, Tương ưng Tỷ-kheo (Bhikkhusaṃyutta) là Tương ưng cuối cùng trong Thiên Nhân duyên (Nidānavagga). Ở Tương ưng này, một vài hành trạng của các vị đệ tử như Kolita (Mahāmoggallāna), Upatissa (Sāriputta), Nanda… đã được đề cập với nhiều chi tiết đặc thù. Đơn cử như: “Đối với Tôn giả Sāriputta, dầu cho bậc Đạo sư có biến hoại, trạng huống có đổi khác, cũng không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não” (S. II. 274).
[SN.II.09] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thí Dụ
Thứ chín, Tương ưng Thí dụ (Opammasaṃyutta) đề cập đến những ví dụ sinh động như ngôi nhà có nóc nhọn với hạnh không phóng dật (S. II. 262). Tương ưng này cũng ghi nhận về câu chuyện cái chốt trống Ānaka và sự pha trộn những yếu tố ngoại lai vào giáo pháp Phật (S. II. 266). Thậm chí hình ảnh con dã can còn được dùng làm ví dụ để chỉ cho vị Tỷ-kheo mê ngủ (S. II. 271). Đức Phật dạy rằng: “Đây là sự chết, này các Tỷ-kheo, trong giới luật của bậc Thánh, tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục” (S. II. 270).