[SN.II.08] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Lakkhana
Thứ tám, Tương ưng Lakkhaṇa (Lakkhaṇasaṃyutta) thuật lại những bài pháp thoại của Tôn giả Mahāmoggallāna (Đại Mục-kiền-liên) với Tôn giả Lakkhaṇa. Nội dung chính của những bài kinh này liên quan đến cảnh giới khổ đau của loài ngạ quỷ và Tôn giả Mahāmoggallāna đã chỉ ra do nguyên nhân gì phải thọ nhận khổ đau như vậy. Theo thống kê, có tất cả 21 loài khổ quỷ do Tôn giả Mahāmoggallāna trông thấy và đã kể lại với Tôn giả Lakkhaṇa.
[SN.II.07] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Ràhula
Ẩn dụ trùng ăn phân là một ẩn dụ có khả năng chấn động tâm thức (S. II. 228). Theo lời đức Phật, có kẻ không hề nói láo dù bị mua chuộc từ một đồng Nikkha cho đến một trăm đồng Nikkha, nhưng sẽ nói láo khi bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối. Hình ảnh cây chuối, cây tre, cây lau, con lừa sau khi sanh sản đều bị diệt vong là những ví dụ sinh động chỉ cho những chúng sanh bị cột trói bởi lợi đắc, cung kính và danh vọng (S. II. 241). Những ví dụ này cũng có mặt trong Luật tạng Pāli, chương bảy, Cullavagga.
[SN.II.06] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Lợi Ích Đắc Cung Kính
Thứ sáu, Tương ưng Lợi đắc, cung kính (Lābhasakkārasaṃyutta) trình bày những đớn đau, khổ lụy do bị chi phối bởi lợi đắc, cung kính, danh vọng (S. II. 225). Ẩn dụ trùng ăn phân là một ẩn dụ có khả năng chấn động tâm thức (S. II. 228). Theo lời đức Phật, có kẻ không hề nói láo dù bị mua chuộc từ một đồng Nikkha cho đến một trăm đồng Nikkha, nhưng sẽ nói láo khi bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối. Hình ảnh cây chuối, cây tre, cây lau, con lừa sau khi sanh sản đều bị diệt vong là những ví dụ sinh động chỉ cho những chúng sanh bị cột trói bởi lợi đắc, cung kính và danh vọng (S. II. 241). Những ví dụ này cũng có mặt trong Luật tạng Pāli, chương bảy, Cullavagga.
[SN.II.05] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Ca Diếp (Kassapa)
Thứ năm, Tương ưng Kassapa (Kassapasaṃyutta) và thứ bảy là Tương ưng Rāhula (Rāhulasaṃyutta) đề cập về công hạnh riêng biệt của hai vị Thánh Tăng này. Với Kassapa, vị Thánh Tăng luôn biết đủ và kham khổ trong tứ sự cần dùng (S. II. 194). Đặc biệt, đức Phật đã từng ban y phấn tảo cho Tôn giả Kassapa và Tôn giả đã vô cùng quý trọng đặc ân này (S. II. 217). Với Tôn giả Rāhula, việc cần cầu học hỏi chính là mong mỏi thường trực của Tôn giả. Nhờ nhận thức và thực tập: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, nên Tôn giả Rāhula đã thành tựu quả vị giải thoát (S. II. 253).
[SN.II.04] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga)
Thứ tư, Tương ưng Vô thỉ (Anamataggasaṃyutta) đề cập đến sự luân hồi không có đầu mối của chúng sanh (S. II. 178). Trong mênh mang luân hồi đó, khó có thể tìm thấy một ai chưa từng là người thân thuộc của mỗi chúng sanh (S. II. 189-90). Ngay như ngọn núi Vepulla (Tỳ-phú-la) ở Rājagaha (Vương Xá) này, ngoài tên gọi như đã biết thì còn có sáu tên gọi khác ở trong quá khứ xa xưa (S. II. 190).
[SN.II.03] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Giới
Thứ ba, Tương ưng Giới (Dhātusaṃyutta) đề cập đến cảnh giới, phạm vi, yếu tố, tính chất, chủng loại của nhiều sự vật, hiện tượng và kể cả con người cùng những thuộc tính của chúng. Đơn cử: “Này các Tỷ-kheo, tùy thuộc theo giới, các chúng sanh cùng hòa hợp, cùng đi với nhau. Chúng sanh liệt ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sanh liệt ý chí. Chúng sanh thiện ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sanh thiện ý chí” (S. II. 154).
[SN.II.02] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Minh Kiến
Thứ hai, Tương ưng Minh kiến (Abhisamayasaṃyutta) chỉ cho sự thấy biết rõ ràng và đầy đủ về giáo pháp (dhammābhisamaya), có ý nghĩa to lớn như là chứng đắc Pháp nhãn (S. II. 133), và một khi thành tựu minh kiến sẽ đoạn tận khổ đau. Những ẩn dụ như đất trên móng tay và quả đất (S. II. 133), hòn sỏi và ngọn núi (S. II. 139)… là những so sánh sinh động nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa sâu rộng của minh kiến.
[SN.II.01] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Nhân Duyên
Tương ưng Nhân duyên trình bày các phương diện, các khía cạnh đặc thù của 12 nhân duyên. Bên cạnh việc trình bày về lý thuyết Duyên khởi (S. II. 25), Tương ưng này cũng đề cập đến những nội dung quan trọng như bốn loại thức ăn (S. II. 11-12), mười lực (S. II. 27), bốn vô sở úy (S. II. 28), cùng các khái niệm quan trọng về tâm, ý, thức (S. II. 94-95). Liên quan đến quan điểm của Phật giáo về vấn đề ăn uống, Tương ưng này cũng đưa ra ví dụ về việc ăn thịt đứa con rất sống động (S. II. 97).
[SN.I.11] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sakka
Tương ưng thứ mười một là Tương ưng Sakka (Sakkasaṃyutta). Tương ưng này đề cập đến cuộc chiến dai dẳng giữa chư thiên và a-tu-la. Trong cuộc chiến này, có khi chư thiên thắng và ngược lại, tuy nhiên điều đáng ghi nhận là phẩm hạnh của chư thiên luôn được đề cao. Ngay như Thiên chủ Sakka, trong khi lui binh trốn chạy kẻ thù nhưng vẫn sợ xe của mình cán phải tổ chim non nên bảo người đánh xe né tránh (S. I. 224). Thậm chí đối với kẻ thù, Thiên chủ Sakka cũng không hề có sự gian trá (S. I. 225).
[SN.I.10] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Dạ Xoa
Thứ chín, Tương ưng Rừng (Vanasaṃyutta) và thứ mười là Tương ưng Dạ-xoa (Yakkhasaṃyutta) đề cập đến hai loại chúng sanh bậc cao là chư thiên (devatā) sống trong rừng và các loài dạ-xoa (yakkha) trong sự liên hệ với chúng Tỷ-kheo nói chung. Cụ thể như, có vị Tỷ-kheo thích ngửi hương sen nên thường đến bên bờ hồ để ngửi hoa sen. Khi ấy, có vị thiên trú ở rừng, ở cây đã khuyên Tỷ-kheo này bằng cách chỉ ra rằng, ngửi hương cũng là hình thức của trộm cắp (S. I. 204). Tương tự như vậy, dạ-xoa Sīvaka đã trấn an cư sĩ Cấp Cô Độc khi vị này lần đầu tiên đến Trúc Lâm để diện kiến đức Phật và chúng Tăng (S. I. 210). Bên cạnh đó, còn có những dạ-xoa bạo ác, không những hù dọa các vị Thánh đệ tử mà còn nhiều lần sách nhiễu đức Thế Tôn (S. I. 218).