![[SN.IV.09] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Vô Vi](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.09] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Vô Vi
Tương ưng Vô vi (Asaṅkhatasaṃyutta) định nghĩa thế nào là vô vi và con đường dẫn đến vô vi (S. IV. 360). Tương ưng này cũng liệt kê những tên khác nhau chỉ cho vô lậu (S. IV. 370).
![[SN.IV.08] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thôn Trưởng](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.08] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thôn Trưởng
Tương ưng Thôn trưởng (Gāmaṇisaṃyutta). Trong Tương ưng này, đức Phật hóa giải những định kiến sai lầm cho các vị thôn trưởng về các quan niệm như tàn bạo và hiền lành (S. IV. 305). Người làm kẻ khác loạn tâm, đam mê chơi bời sẽ bị đọa vào địa ngục Hý Tiếu (Pahāsa) (S. IV. 306). Đặc biệt, Tương ưng này nêu rõ sự khác biệt giữa cầu siêu theo quan điểm của Bà-la-môn và cầu siêu theo quan điểm của Phật giáo (S. IV. 311).
![[SN.IV.07] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Tâm](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.07] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Tâm
Tương ưng Citta (Cittasaṃyutta). Citta (Tâm) là tên riêng của một vị cư sĩ tại gia của đức Phật, có nhiều điều đặc dị, phi phàm. Vị cư sĩ này có những nét tương đồng với cư sĩ Duy-ma-cật trong kinh văn Hán tạng. Trước hết, sau khi đảnh lễ chư Tăng, cư sĩ Citta đã thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo (S. IV. 281). Có trường hợp, cư sĩ Citta đã giải thích bài kệ cho Trưởng lão Kāmabhu (S. IV. 291). Trong trường hợp khác, cư sĩ Citta đã luận biện với các vị Nigaṇṭha (S. IV. 297). Ở đây, sở dĩ có khả năng như thế vì cư sĩ Citta đã chứng đắc Tứ thiền (S. IV. 300). Ngay cả trong lúc lâm chung, vị cư sĩ này còn an ủi ngược lại những người thăm bệnh mà trong số đó có cả chư thiên ở rừng, ở cây và khiến cho tất cả thính chúng được giải thoát (S. IV. 302). Tương ưng này cũng ghi nhận về năng lực thuyết giảng và sức mạnh thần thông của hai vị Tỷ-kheo trẻ mới tu. Vị thứ nhất tên là Isidatta có khả năng thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo trưởng lão (S. IV. 285) và vị thứ hai là Tỷ-kheo Mahaka đã thực hành thần thông, khiến mưa rơi xuống để cúng dường sự mát mẻ đến các bậc Trưởng lão (S. IV. 288)
![[SN.IV.06] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Moggalàna](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.06] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Moggalàna
Tương ưng Moggallāna (Moggallānasaṃyutta) đề cập đến tứ thiền và tứ vô sắc định do Tôn giả Mahāmoggallāna giảng thuyết cho chúng Tỷ-kheo (S. IV. 262-68). Ngoài ra, Tương ưng này cũng ghi nhận sự kiện Tôn giả Mahāmoggallāna lên cõi trời Tāvatiṃsa (Tam Thập Tam thiên) thuyết pháp cho chư thiên (S. IV. 269-80).
![[SN.IV.05] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sàmandaka](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.05] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sàmandaka
Thứ tư, Tương ưng Jambukhādaka (Jambukhādakasaṃyutta) và thứ năm, Tương ưng Sāmaṇḍaka (Sāmaṇḍakasaṃyutta) ghi lại những lời dạy của Tôn giả Sāriputta với du sĩ ngoại đạo Jambukhādaka và Sāmaṇḍaka về những vấn đề như Niết-bàn và con đường dẫn đến Niết-bàn (S. IV. 251); thế nào là vị A-la-hán và con đường dẫn đến quả vị A-la-hán (S. IV. 251); phương cách điều hòa hơi thở và đạt đến điều hòa hơi thở tối thượng (S. IV. 254); thế nào là thọ (S. IV. 255); thế nào là lậu hoặc, vô minh, khát ái, bộc lưu, chấp thủ (S. IV. 256-58)… đã được Tôn giả Sāriputta giảng giải thỏa đáng.
![[SN.IV.04] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Jambukhàdaka](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.04] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Jambukhàdaka
Thứ tư, Tương ưng Jambukhādaka (Jambukhādakasaṃyutta) và thứ năm, Tương ưng Sāmaṇḍaka (Sāmaṇḍakasaṃyutta) ghi lại những lời dạy của Tôn giả Sāriputta với du sĩ ngoại đạo Jambukhādaka và Sāmaṇḍaka về những vấn đề như Niết-bàn và con đường dẫn đến Niết-bàn (S. IV. 251); thế nào là vị A-la-hán và con đường dẫn đến quả vị A-la-hán (S. IV. 251); phương cách điều hòa hơi thở và đạt đến điều hòa hơi thở tối thượng (S. IV. 254); thế nào là thọ (S. IV. 255); thế nào là lậu hoặc, vô minh, khát ái, bộc lưu, chấp thủ (S. IV. 256-58)… đã được Tôn giả Sāriputta giảng giải thỏa đáng.
![[SN.IV.03] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Nữ Nhân](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.03] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Nữ Nhân
Tương ưng Nữ nhân (Mātugāmasaṃyutta) đề cập đến những đức tánh khả ý và không khả ý của người phụ nữ (S. IV. 238), những điểm đặc thù chỉ riêng có ở phụ nữ (S. IV. 239) và cả những tật xấu của phụ nữ như phẫn nộ, sân hận, tật đố, xan tham, biếng nhác… Ngoài ra, Tương ưng này cũng đề cập đến những tăng trưởng tốt đẹp dành cho phụ nữ (S. IV. 250). Tương ưng Nữ nhân đã chuyên chở một vài chi tiết không phải lời Phật dạy mà là những quan niệm, những định kiến của xã hội Ấn Độ cổ đại đối với phụ nữ.
![[SN.IV.02] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thọ](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.02] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thọ
Tương ưng Thọ (Vedanāsaṃyutta) đề cập đến ba thọ, gồm lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. “Ba thọ này, do xúc sanh, lấy xúc làm căn bản, lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm trợ duyên” (S. IV. 215). Đức Phật khẳng định rằng: “Phàm cái gì được cảm thọ, cái ấy nằm trong đau khổ” (S. IV. 216).
![[SN.IV.01] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sáu Xứ](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.IV.01] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sáu Xứ
Tương ưng đầu tiên là Tương ưng Sáu xứ (Saḷāyatanasaṃyutta). Đây là Tương ưng dài thứ hai trong Tương ưng bộ. Nội dung của Tương ưng này đề cập đến tính chất vô thường, khổ, vô ngã trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đức Phật nói rằng: “Ai ưa thích mắt, này các Tỷ-kheo, người ấy ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta nói người ấy không thoát khỏi khổ” (S. IV. 13). “Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức” (S. IV. 67). Chính vì vậy, cần phải hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác, ngay trong hiện tại sống được an lạc, hoan hỷ và tạo nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc (S. IV. 175). Hình ảnh khúc gỗ trôi sông, nếu như không tấp vào bờ này hay bờ kia, không bị mục nát, không bị phi nhân nhặt lấy… tất sẽ trôi ra biển lớn. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo không bị dính mắc bởi sáu nội xứ và sáu ngoại xứ, tâm không chấp thủ… sẽ xuôi về Niết-bàn (S. IV. 179).
![[SN.III.13] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thiền](https://pali.namo84000.org/wp-content/uploads/2023/10/Pháp-Bảo-kinh-tương-ưng-bộ.jpg)
[SN.III.13] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thiền
Tương ưng cuối cùng của Thiên Uẩn là Tương ưng Thiền (Jhānasaṃyutta). Trong Tương ưng này đã khéo phân biệt giữa thiền định và thiền chứng (samādhimūlakasamāpatti) thông qua bốn hạng người tu tập (S. III. 265). Đồng thời, Tương ưng Thiền cũng chỉ rõ thế nào là thiện xảo về chỉ trú trong thiền định (samādhimūlakaṭhiti), thiện xảo về xuất khởi trong thiền định (samādhimūlakavuṭṭhāna), thiện xảo về sự thuần thục trong thiền định (samādhimūlakakallita).