Primary Menu

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ

Trích từ
KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ
Hệ phái Nam tông – Theravada

PHẦN CẦU AN
—o0o—

BÀI THỈNH TỲ KHƯU TĂNG TỤNG KINH CẦU AN

(PARITTABHĀSANĀYĀCAṄGĀTHĀ)

  • Vipattippaṭibāhāyā
    sabbasampatisiddhiyā
    sabbadukkhavināsāya
    parittaṃ brū tha maṅgalaṃ ,
  • Vipattippaṭibāhāya
    sabbasampattisiddhiyā
    sabbabhayavināsāya
    parittaṃ brū tha maṅgalaṃ
  • Vipattippaṭibāhāya
    sabbasampattisiddhiyā
    sabbaroga-vināsāya
    parittaṃ brū tha maṅgalaṃ .

Nghĩa:

Cầu xin các Ngài tụng kinh cầu an, để ngăn ngừa, tránh khỏi các điều rủi ro tai hại, cho đặng thành tựu những hạnh phúc, khiến cho tất cả sự khổ não, kinh sợ và bịnh hoạn đều tiêu tan. (lạy)

BÀI THỈNH PHÁP SƯ – DHAMMA DASANĀYĀCANAGĀTHĀ

Brahmā ca lokā dhipatī sahampatī
katañjalī andhivaraṃ ayācatha
santīdha sattāpparajakkhajātikā
desetu dhammaṃ anukampimaṃ pajaṃ

Saddhammabheriṃ vinayañca kāyaṃ
suttañca bandhaṃ abhi-dhammacammaṃ
ākotayanto catusacca-daṇḍaṃ
pabbodha neyye parisāya majjhe.

Evaṃ sahampatī brahmā
bhagavantaṃ ayācatha
tuṇhībhāvena taṃ buddho
kāruññenādhivāsaya
tanhā vuṭṭhāya pādena
migadāyaṃ tato gato
pañca-vakyādayo neyye
amaṃ pāyesi dhammato

Tato pabhū ti sambuddho
anū nā dhammadesanaṃ
māghavāssāni desesi
sattānaṃ atthasiddhakaṃ
tena sādhu ayyo bhante
desetu dhammadesanaṃ
sabbāyidha parisāya
anukampampi kātave.

Nghĩa:

THỈNH PHÁP SƯ

Thuở Phật mới đạt thành quả vị.
Có Xá ham bát tí Phạm thiên
Cả trong thế giới các miền,
Thanh cao quán chúng cần chuyên đạo mầu.
Hiện trước Phật đê đầu đảnh lễ,
Bạch xin Ngài tế thế độ nhơn.
Chúng sanh trong khắp cõi trần;
Tối mê điên đảo không phân tội tình.
Cầu Phật Tổ cao minh ái truất,
Hiển oai linh tỉnh thức dắt dīu,
Hoằng khai đạo pháp cao siêu,
Tu hành theo đặng kết nhiều thiện duyên
Thế Tôn được mãn viên đạo quí,
Tôi hết lòng hoan hỉ tán dương.
Nhưng vì hoàn cảnh đáng thương,
Không đành bỏ mặc, lạc đường làm thinh.
Chúng sanh vốn đa tình lắm bậc,
Không thông đâu chơn thật giả tà.
Vô thường khổ não chấp ta,
Ngày nay sơ ngộ thiết tha nhờ Ngài.
Xin mở lượng cao dày răn dạy,
Chuyển pháp luân diễn giải diệu ngôn.
Chúng sanh nghe đặng pháp môn,
Thoát vòng khổ não dập dồn bấy lâu.
Giải thoát những nguồn sầu câu thúc,
Diệt tham lam ái dục bao vòng.
Tối tăm sẽ được sáng trong,
Phát sanh trí tuệ hiểu thông tinh tường.
Thông thấu lẽ vô thường vắn dỏi.
Ba tướng trong ba cõi mỏng manh.
Vô minh duyên của các Hành,
Cội căn dắt dẫn chúng sanh luân hồi.
Biển trần khổ nổi trôi chìm đắm,
Bị ngũ ma vày, nắm chuyển di,
Vậy nên cầu đấng Từ Bi,
Tạo thuyền Bát nhã trải đi vớt người.
Ðưa qua chốn tốt tươi yên tịnh,
Bờ Niết Bàn chẳng dính trần ai;
Như đèn rọi suốt trong ngoài,
Chiếu tia sáng khắp các loài hân hoan.
Pháp ví trống khải hoàn rầm rộ,
Luật ví như đại cổ hoằng dương.
Kinh như dây buộc trên rường.
Luận như mặt trống vẹt đường vô minh
Tứ diệu đế đó hình dùi trống,
Gióng khua tan giấc mộng trần gian.
Chúng sanh tất cả bốn hàng,
Như sen trong nước minh quang luống chờ.
Trời lố mọc đặng nhờ ánh sáng,
Trổ hoa lành rải tản mùi hương.
Pháp mầu ánh sáng phi thường,
Chiếu khắp ba cõi rõ đường an vui.

*
Phạm Thiên vẫn ngậm ngùi khẩn khoản.
Phật nhận lời nhưng chẳn dĩ hơi.
Quyết lòng mở đạo dạy đời,
Nhắm vườn Lộc Giả ngài dời chơn sang.
Thuyết pháp độ các hàng đệ tử,
Có năm Thầy thỉnh dự pháp từ
Ðó là nhóm Kiều Trần Như,
Ðược nếm hương vị Hữu dư Niết Bàn.
Rồi từ đó mở mang giáo pháp,
Bốn mươi lăm hạ giáp vẹn toàn.
Một lòng chẳng thối không mòn.
Những điều lợi ích hằng còn lâu năm.
Cả tam giới thừa ân phổ cập,
Ðám mưa lành rưới khắp thế gian.
Bởi nhân cớ, tích rõ ràng,
Thỉnh Ngài thuyết pháp noi đàng từ bi.
Chúng sanh ngồi khắp chốn ni,
Tối mê cầu được trí tri vẹn toàn. (lạy)

KINH HỒI HƯỚNG SAU KHI NGHE PHÁP (PATIDĀNAGĀTHĀ)

Yā devatā santi vihāravāsinī
Thū pe ghare bodhighare tahiṃ tahiṃ.
Tā dhammadānena bhavantu pū jitā.
Sotthiṃ karontedha vihāramaṇdale.

Therā ca majjhā navakā ca bhikkhavo,
Sārāmikā, dānapatī upāsakā
Gāmā ca desā nigāmā ca issarā,
Sappānaphū tā sukhitā bhavantute

Jalābujā ye pica aṇḍasambhavā
Sansedajātā athavopapātikā;
Niyyānikaṃ dhammāvaraṃ paticcate
Sabbe pi dukkhassa karontu sankhayaṃ .

Thātu ciraṃ sataṃ dhammo.
Dhammaddharā ca puggalā.
Saṅgho hotu samaggo va
Atthāya ca hitāya ca.

Amhe rakkhatu saddhammo
Sabbe pi dhammacārino.
Vuḍḍhiṃ sampāpuneyyāma
Dhammāriyappavedite.

Nghĩa:

Ngưỡng cầu các đấng chư Thiên.
Trong vòng tịnh xá ngự yên hằng ngày.
Ngự nơi đền tháp xưa nay,
Những nơi biệt thất nơi cây Bồ đề.
Chúng tôi xin hội họp về,
Sẽ dùng pháp thí tiện bề cúng dâng.
Rồi xin hộ độ chư Tăng,
Cửa từ ẩn náo phước hằng hà xa.
Tỳ Khưu chẳng luận trẻ già,
Cao hạ, trung hạ hoặc là mới tu.
Thiện nam tín nữ, công phu,
Ðều là thí chủ đồng phù trợ nhân.
Những người trong khắp thôn lân.
Kiều cư châu quận được phần an khương.
Chúng sanh bốn loại không lường
Noãn, thai, thấp, hóa khi nương pháp lành.
Giải thoát pháp bảo nên hành,
Ðặng mà dứt khổ truyền quanh đọa đày.
Cầu cho hưng thạnh lâu dài,
Pháp thiện trí thức các Ngài mở mang.
Bậc tu xin được bình an,
Cầu cho Tăng chúng các hàng hòa nhau;
Lại thêm phẩm hạnh thanh cao,
Những quả lợi ích kết mau kịp thì.
Cầu xin pháp bảo hộ trì,
Cho người tu đã quy y Phật rồi.
Xin cho cả thảy chúng tôi,
Tấn hóa trong pháp Phật roi giáo truyền.

KỆ ÂN ĐỨC PHỤ MẪU (MĀTĀ PITU PANĀMA GĀTHĀ)

Yadājāto cayo vāhaṃ
Dukkhaṃ mātā pituhime
Anuphū ttaṃ navaṇṇituṃ
Hatthaṃ pagayha vandito
Dosaṃ khamathameyeva
Tumhe dethābhayampi ca
Rudhitassevametumhe
Sugitamuppagettha ve
Nipajjāpetha maṃ amhaṃ
Malamuttampi sakalaṃ
Hatthena te gahetvā va
Dhovitthāpi ca sabbaso
Tuṃhe anāgate kāle
Amma karuṇṇike have
Puttadhitutta mātā ta
Buddhāyeva bhaveyyā tha.

Nghĩa:

LỄ BÁI PHỤ MẪU KỆ

Kính thưa cha mẹ tường tri
Nghĩ suy con sợ lỗi nghì ơn trên
Từ con hình thể có nên
Mẹ cha bảo dưỡng kề bên không rời
Nặng nề cực nhọc lắm ôi!
Chăm nom con trẻ kể thôi sao cùng
Con xin đảnh lễ cúc cung
Nghiêng mình phủ phục mong dung tội rày.
Khi con la khóc rày tai
Từ bi mẹ hát thương thay não nùng
Tân dịch, đại tiểu tiện cùng
Các vật uế trược ung dung lau chùi
Giặt rửa cha mẹ vẫn vui
Chẳng hề nhờm gớm những mùi thúi tha.
Từ bi thay! Lòng mẹ cha
Ơn tầy trời đất, khó mà đáp xong
Cầu cho cha mẹ thảy đồng
Ðắc thành Phật quả thoát vòng tai ba.

BÀI SÁM HỐI

(Tụng đêm 14 và 30 trong mỗi tháng)

Cúi đầu lạy trước Bửu Ðài.
Con xin sám hối từ rày ăn năn;
Xưa nay lỡ phạm điều răn
Do thân, khẩu, ý bị màn vô minh;
Gây ra nghiệp dữ cho mình,
Sát sanh hại vật chẳng tình xót thương
Giết ăn hoặc bán không lường.
Vì long tham lợi quên đường thiện nhân.
Oan oan tương báo cõi trần,
Trầm luân biển tối chịu phần khổ lao;
Xét ra nhơn, vật khác nào.
Hại nhơn, nhơn hại mắc vào trả vay;
Lại thêm trộm sản cướp tài,
Công người cực nhọc hằng ngày làm ra;
Lòng tham tính bảy, lo ba,
Mưu kia, kế nọ, lấy mà nuôi thân;
Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần,
Làm cho người phải lắm lần than van;
Tà dâm tội nặng muôn ngàn,
Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay;
Vợ con người phải lầm tay,
Mất trinh thất tiết phải tai tiếng đời;
Xấu cha hổ mẹ nhiều lời,
Xa lìa chồng vợ rã rời lứa đôi;
Vọng ngôn giả dối ngoài môi,
Chuyện không nói có, có rồi nói không;
Dụng lời đâm thọc hai lòng,
Phân chia quyến thuộc, vợ, chồng, anh, em;
Mắng nhiếc chưởi rủa pha gièm.
Xóm làng cô bác chị em không chừa;
Nói lời vô ích dây dưa.
Phí giờ quí báu hết trưa đến chiều;
Uống rượu sanh hại rất nhiều,
Ham ăn mê ngủ nói điều chẳng kiên;
Say sưa ngã gió đi xiên;
Nằm bờ té bụi như điên khác nào;
Loạn tâm cuồng trí mòn hao,
Nhiều người vì rượu biết bao hư nhà;
Xan tham những của người ta,
Mong sang đoạt được lòng tà mới ưng;
Nết sân nóng giận không chừng,
Toan làm hại chúng bâng khuâng trong lòng;
Si mê tin chạ chẳng phòng,
Nghe đâu theo đó không thông chánh tà;
Chẳng tin Phật Pháp cao xa
Thậm thâm vi diệu bao la trên đời;
Nếu con cố ý phạm lời,
Hoặc là vô ý lỗi thời điều răn;
Hoặc xúi kẻ khác bạo tàn,
Hoặc nghe thấy ác lòng hằng vui theo;
Phạm nhằm ngũ giới thập điều.
Vì nhân thân, khẩu, ý, nhiều lầm sai;
Lỗi từ kiếp trước lâu dài,
Ðến kiếp hiện tại miệt mài lắm phen;
Hoặc vì tà kiến đã quen,
Khinh khi Tam Bảo lòng bèn chẳng tin;
Cho rằng người chết hết sinh,
Phạm vào đoạn kiến tội tình nặng thay,
Hoặc phạm thường kiến tội dày,
Sống sao đến thác, sanh lai như thường;
Tội nhiều kể cũng không lường,
Vì con ngu dốt không tường phân minh;
Dễ duôi Tam Bảo, hại mình,
Bởi nhân không thấu vô minh nghiệp tà;
Cho nên Chơn Tánh mới là,
Tối tăm chẳng rõ sai ngoa thuở đầu;
Hóa nên khờ dại đã lâu,
Ðể cho hoàn cảnh mặc dầu kéo xoay;
Khác nào bèo bị gió quay,
Linh đinh giữa biển dật dờ bờ sông;
Xét con tội nặng chập chồng,
Kiếp xưa cho đến hiện trong kiếp này;
Con xin sám hối từ đây,
Nguyện cầu Tam Bảo đức dày độ cho;
Tội xưa chẳng hạn nhỏ to,
Con nguyền dứt cả chẳng cho thêm vào;
Tâm lành dốc chí nâng cao,
Cải tà qui chánh chú vào Phật ngôn;
Cho con khỏi chốn mê hồn,
Ðến nơi cõi Phật Thế Tôn gần kề;
Thoát vòng khổ não tối mê,
Hưởng miền Cực Lạc mọi bề thảnh thơi;
Ngày nay dứt bỏ việc đời,
Căn lành gieo giống chẳng rời công phu;
Mặc ai danh lợi bôn xu,
Con nguyền giữ hạnh người tu thoát trần;
Trước là độ lấy bổn thân,
Sau giúp quyến thuộc được phần tiêu diêu;
Sám hối tội lỗi đủ điều,
Duyên lành đều cũng ít nhiều kết xây;
Tôi xin hồi hướng quả này,
Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường;
Cùng là thân thích tha phương,
Hoặc đã quá vãng hoặc thường hiện nay;
Chúng sanh ba giới bốn loài,
Vô tưởng hữu tưởng chẳng nài đâu đâu;
Nghe lời thành thật thỉnh cầu,
Xin mau tựu hội lãnh thâu quả này;
Bằng ai xa cách chưa hay,
Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng;
Thảy đều thọ lãnh hưởng chung,
Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai;
Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài.
Ðạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành;
Nguyện cho Phật Pháp thạnh hành.
Năm ngàn năm chẵn phước lành thế gian.

(lạy)

KINH TỤNG RẢI TÂM BÁC ÁI

đến tất cả các hướng – (Sabbadisāsu mettāpharanaṃ)

Sabbe puratthimāyā disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe puratthimāyā anudisāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe dakkhiṇāya disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe dakkhiṇāya anudisāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe pacchimāya disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy được yên vui.

Sabbe pacchimāya anudisāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uttarāya disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng bắc đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uttarāya anudisāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uparimāya disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng trên, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe heṭṭhimāya disāya sattā averā sukhī hontu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng dưới, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu niddukkhā hontu abyāpajjhā hontu, anīghā hontu dīghāyukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhaṇtu sukhī attānaṃ pāriharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibbhayā, sokappattā ca nissokā hontu sabbepi pāṇiṇo.
Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.

(Khi có sự lo sợ hoặc tối, trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được yên vui).

KINH HỒI HƯỚNG

Yaṃ kiñci kusalakammaṃ ,
kattabbaṃ kiriyaṃ mama,
kāyena vācāmanasā,
tidase sugataṃ kataṃ ,
ye sattā saññino atthi,
ye ca sattā asaññino,
kataṃ puññaphalaṃ mayhaṃ
sabbe bhāgī bhavantute,
ye taṃ kataṃ ,
suviditaṃ dinnaṃ puññaphalaṃ mayā,
ye ca tattha najānanti,
devā gantvā nivedayuṃ,
sabbe lokamhi ye sattā,
jīvantāhārahetukā,
manuññaṃ bhojanaṃ
sabbe labhantu mama cetasāti.

Nghĩa diễn ra Quốc Âm:

Phước căn tôi đã tạo thành,
Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên.
Ðều là phước báu vững bền,
Có thể tiếp chúng độ lên thiên đàng.
Cung trời Ðạo Lợi thọ nhàn,
Chúng sanh hữu tưởng nhơn gian Ta bà.
Chư Thiên Phạm Thiên cùng là,
Bậc trời vô tưởng được mà hưởng an.
Phước tôi hồi hướng dâng ban,
Chúng sanh hay biết hoàn toàn lãnh thâu.
Bằng ai chưa rõ lời cầu,
Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay.
Có người làm phước được rày,
Lại đem hồi hướng hiện nay khắp cùng.
Chúng sanh hoan hỉ lãnh chung,
Hưởng được phước quí ung dung thanh nhàn.
Chúng sanh thế giới các hàng,
Bởi nhờ thọ thực sanh an mạng trường.
Xin thâu phước báu cúng dường,
Hóa thành thực phẩm mùi hương thỏa lòng. (lạy)

(Sau khi làm xong việc tài thí hoặc pháp thí rồi cần phải đọc bài nguyện sau này để dứt bỏ lòng ham muốn).

Idaṃ vata me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu ānagate.

Xin cho sự phước thí mà tôi đã trong sạch làm đây, hãy là món duyên lành để dứt khỏi những điều ô nhiễm ngủ ngầm nơi tâm, trong ngày vị lai.

VÔ THƯỜNG – KHỔ NÃO – VÔ NGÃ

Diễn ra Quốc âm:

Biển trần khổ sóng bồng lai láng,
Kiếp phù sanh đáng chán biết bao
Tấm thân chìm đắm dạt dào.
Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly,
Cõi giả tạm ích gì sự thế.
Uổng tâm tư tìm kế miên trường,
Trần hoàn vạn vật vô thường,
Khổ não, vô ngã đầy đường chông gai.
Do báo nghiệp lưu lai từ trước,
Các pháp hành, tạo được thân duyên,
Pháp hành kế tục nhau liền,
Diệt, sanh, sanh, diệt triền miên không ngừng.
Người hay thú đồng chung số phận,
Hễ có thân ngũ uẩn, không bền.
Chịu điều biến đổi đảo điên,
Sanh, già, đau, chết không yên lúc nào,
Thể vật chất không sao giữ nổi,
Sức vô thường phá mỗi sát na,
Xét cùng đâu phải thân ta.
Khó ngăn tóc bạc không cầm răng long.
Lửa ái dục đốt lòng từ phút,
Vấy ưu phiền, chẳng chút nào nguôi,
Dễ chi đặng tạm an vui,
Suy mòn vì nhuộm nặng mùi trần ai.
Chừng thân chết nảy hơi hôi hám,
Người, ai ai chẳng dám lại gần,
Gớm ghê, dầu bậc chí thân,
Ðều sợ xui, lụy, hương lân, cửa nhà.
Chọn một chốn rừng già hoang vắng,
Ðem thây thi, an táng cho xong,
Ðịa táng, hỏa táng chẳng đồng,
Tùy duyên, tùy lực, vẫn không quản gì.
Ðưa xác chết, người đi đông đúc,
Kẻ thân nhân uất ức, khóc than.
Hình hài ba khúc rã tan,
Thanh danh tiêu diệt họ hàng cách xa.
Khổ tử biệt thiết tha nung nấu,
Biệt gia tài, của báu, tình yêu,
Tấm thân ngũ uẩn đã tiêu,
Ðất, nước, gió, lửa, về nhiều căn nguyên.
Thân đã chẳng, thiên diên ngày tháng.
Buổi chia lìa ngao ngán đau thương.
Chúng sanh ba cõi vô thường,
Nên vun cội phước, tìm đường siêu sanh.
Lựa các thứ nhân lành gieo giống,
Quả kết trong kiếp sống về sau,
Mở lòng bố thí dồi dào,
Học kinh, trì giới, khá mau tu hành,
Kẻo rồi phải điêu linh, sa đọa,
Vào bốn đường ác đạo khó khăn
Vô cùng khốn khổ thân tâm,
Ðời đời kiếp kiếp trầm luân không về
Thân khẩu ý giữ gìn trong sạch,
Dẫn trên đường thanh bạch mà đi,
Dầu cho chuyển kiếp đến kỳ,
Cũng còn trông ngóng thoát ly khổ sầu,
Rán hối quá quay đầu hướng thiện,
Ác nghiệp trần đoạn tuyệt chớ gieo.
Tâm đừng xu hướng, vui theo,
Thiện duyên gầy dựng, trần lao dứt lần.
Các phương pháp, yên tâm tịnh trí,
Chúng sanh cần tìm kiếm học hành,
Cho lòng chán nản phát sanh,
Cội nguồn tội khổ hiểu rành sâu xa,
Pháp chán nản dạy ta suy xét,
Khổ cõi đời số cát sông Hằng,
Tám điều khổ não ghi bằng,
Ðây lần lượt giải, ngọn ngành như sau.
Cõi trần thế ra vào há dễ,
Luật tuần hoàn nào kể chi ai,
Thân ta chẳng lựa gái trai,
Cũng đều mắc phải đọa đày khổ sanh.
Khi nghiệp đến pháp hành cấu tạo.
Thác sanh vào lòng mẹ thành phôi,
Nguyên tố nhỏ nhít vô hồi,
Vốn là chất lỏng, giống dầu mà trong,
Giọt dầu ấy dính lông con thú,
Ta cầm lên rảy giũ bảy lần,
Chỉ còn chút ít dính gần,
Ðó nguyên chất khởi nên thân con người.
Bảy ngày đầu còn tươi trong vắt.
Rồi lan lần biến sắc đổi màu,
Ðến tuần thứ bảy về sau,
Biến thành một chất trông vào đáng ghê
Ðỏ dợt dợt, mỡ pha lẫn máu,
Bởi nguyên Hành cứ tạo thêm ra,
Lại đến bảy bữa thứ ba,
Hóa thành chất đặc, như là thịt dư,
Trong bụng mẹ an cư một chỗ,
Miếng thịt thừa tội lỗi xiết chi,
Tuy hình hườn kết thế ni
Nhưng mềm mại, như chì rã tan.
Tưởng tượng đến trăm ngàn ghê sợ.
Phôi bây giờ tương tợ trứng gà,
Phôi này còn yếu chưa già,
Tuần tự thay đổi, bảy ngày thứ tư.
Bảy ngày nữa từ từ biến hóa
Bắt đầu chia tất cả năm nhành,
Tuy hình chưa hẳn thật thành
Nhưng đã có dạng đầu, mình, chơn, tay.
Pháp hành đã tạo hoài không dứt.
Tuần thứ năm thất nhựt vừa qua,
Nhỏ to hình dáng đẩy đà
Ba lăm ngày ấy đã ra hình hài
Ngoài ba tháng thành thai cứng các
Thai loài người, nào khác thú đâu.
Cũng đều khổ não âu sầu,
Ở trong bụng mẹ co đầu, rút chơn,
Ngồi lổm hổm còn hơn ràng buộc
Trên đồ ăn vừa được tiêu tan,
Hai tay nắm lại đỡ cằm,
Mặt day lưng mẹ, tối tăm mịt mờ.
Quanh mình vấy chất dơ, hôi thối
Ðầu đội đồ, mẹ mới ăn vào,
Vừa dơ, vừa ngộp xiết bao
Nên hằng giẫy giụa thân nào đặng yên.
Nếu mẹ chẳng cử kiêng ăn uống,
Mặc đói no, nuốt bướng nhai càn,
Nóng, cay, nguội, lạnh, không màng,
Miển vừa khẩu dục ngó ngàng chi con,
Vật thực trúng da non của trẻ,
Nóng giật mình, lạnh sẽ phát run,
Ðau thương khổ não khôn cùng.
Như chim bị trận bão bùng mưa sa.
Lại giống khỉ trải qua mưa gió,
Nằm co ro, một xó rét run,
Kinh hoàng sợ sệt hết lòng,
Chẳng kham nỗi khổ, day tầm đôi bên.
Hoặc kiếm ở phía trên, hay dưới,
Hoặc là nơi mấy bụi gần đây
Chừng nào tìm được bộng cây,
Chui vào ẩn náu thân này mới an.
Ðủ mười tháng vẹn toàn thân thể.
Gần kỳ sanh lòng mẹ chẳng vui
Lo âu dạ luống bùi ngùi
Sợ sự tai hại trong hồi khai hoa,
Mãn toan tính đắn đo, cân nhắc,
Biển mênh mông chưa chắc đặng qua,
Quanh quẩn công chuyện trong nhà,
Dễ duôi nào dám đi xa bao giờ,
Kịp đến lúc ngồi chờ hoa nở,
Quyến thuộc vầy kẻ đỡ người nưng
Chịu điều đau khổ từng cơn,
Dầu kiên gan mấy, cũng sờn nỗi đau,
Người cả thảy, không sao tránh thoát,
Bỗng dường như, bão tạt vào thai
Hài nhi, như chớp, đã day,
Theo đường kinh huyết ra ngoài sản môn.
May được lúc lâm bồn yên tịnh.
Cả mẹ con khỏe mạnh vuông tròn,
Ấy nhờ hồng phúc nhà còn,
Chúng sanh kiếp trước gây nhiều thiện căn
Nếu phước báu không bằng tội ác,
Khi sanh ra chịu các khó khăn,
Dẫu còn sống sót nữa chăng?
Gật gờ dường phải đôi lần dứt hơi!
Vì nhân ác đến hồi trả quả,
Chúng sanh này, thảm họa chết non.
Chết ngộp, hoặc chết mỏi mòn,
Chết ngoài bụng mẹ, hoặc còn trong thai
Ngán ngẫm, kiếp sanh lai tất tưởi!
Từ thác sanh đến buổi lọt lòng,
Mạng căn nào biết chắc không.
Nhưng đều phải chịu trong vòng khổ lao
Suy nghĩ chán xôn xao tất dạ,
Xét khổ sanh buồn bã âu sầu,
Ðây là hết khổ đặng đâu,
Có thân còn phải lãnh thâu khổ già!
Sự khổ già thân ta hằng chịu,
Dầu gái trai tiều tụy như nhau.
Ðổi thay chẳng trước thì sau,
Suy mòn từ lúc tốn hao từ giờ!
Buổi niên thiếu ngây thơ, đầy đặn,
Sắc xinh tươi đủ vẹn mười phân
Dáng điệu đẹp đẽ tốt lành,
Dương dương đắc ý, tuổi xanh thường tình,
Ðộ trẻ trung vóc hình tráng kiện,
Hằng phô bày thể diện đáng yêu,
Thế gian ai cũng ưa chìu,
Gái trai đều có tự kiêu thuở này,
Mê muội tưởng đẹp hoài không giảm,
Quá lạc lầm quí mến thân ta,
Sắm đồ trang sức, xa hoa,
Ðiểm tô cho đặng, đẹp ra tuyệt trần.
Dụng kính, lược, dự phần chải gỡ,
Giồi phấn son, sặc sỡ thêm duyên,
Chẳng vừa sở tạo tự nhiên.
Lấp mùi hám trược, ướp liền nước thơm.
Công trang điểm, sớm hôm không dứt,
Dáng bên ngoài đến cực kỳ xinh,
Ðủ các tư cách gợi nhìn,
Thật ra nào khác như hình trái sung.
Xác ô uế, đều cùng nam nữ,
Túi đựng đầy những thứ đồ dơ,
Lại còn biến đổi dường mơ,
Chậm, mau, rồi cũng có ngày tiêu tan!
Hữu tình đến vội vàng tuổi hạc,
Mái tóc xanh trắng bạc như bông,
Dầu cho cạn trí hết lòng.
Cản ngăn nó cũng vẫn không nghe nào.
Tay chơn thảy mòn hao, gầy yếu,
Lần lần còn xương chịu lấy da,
Thôi thời tráng kiện đã qua,
Vô thường xô đuổi, tuổi già đến thay.
Mắt sáng suốt những ngày rực rỡ.
Chưa bao lâu đã trở nên lờ,
Trông xa các vật tờ mờ
Nhãn quan suy kém, có chờ cho đâu,
Ðồng thời phát khổ sầu tai điếc,
Lắng mà nghe chẳng thiệt tiếng tăm,
Nghe lầm, ắt nói lại lầm,
Nhĩ quan đã hẳn âm thầm hoại tiêu.
Cuộc biến đổi rất nhiều cơ sở,
Ðây trưng ra mấy cớ thật gần,
Như răng, phải rụng lần lần,
Ðó là triệu chứng tấm thân đã già.
Tham luyến sống, cũng là phải chết,
Thân hữu hình, chưa hết bao lâu,
Thế rằng: “Sanh tử quan đầu”.
Ta nên lấy nó làm câu răn mình.
Cũng có kẻ quá tin sức khỏe.
Tâm trẻ con, thân thể đã già.
Có ai kêu thử, ÔNG, BÀ.
Dầu không oán giận, cũng là không vui
Nghe tiếng gọi ngậm ngùi không dĩ,
Trái lại kêu bằng CHỊ hay ANH,
Tưởng mình đương độ xuân xanh,
Vui mừng thỏa mãn, làm lành thêm lên,
Hạng người thế không nên ái truất,
Người chẳng thông kinh luật khuyên răn,
Hạng này hay có làm xằng
Ai thân cận lắm, ắt hằng nhơ lây,
Nghĩ chín chắn thân này ắt hoại.
Ðã nhớp nhơ mà lại không bền,
Khổ, Già, đeo đuổi một bên,
Khổ Ðau, liên tiếp cho thêm não nề,
Ôi! Thảm khốc, nhắc về Bịnh khổ,
Một cơn đau phát lộ đến ta,
Do nhiều bịnh chứng hà sa,
Toàn thân rũ riệt thiết tha lắm hồi.
Bệnh suyễn, mệt, nói thôi không xiết,
Bịnh ho, lao, bịnh kiết, ung thư,
Ghẻ chốc, tê, bại cốt hư,
Ðàn ông cũng phải chịu như đàn bà,
Bịnh cùi, lác, thúi da, lầy lụa.
Những lang ben ăn túa châu thân,
Nhức đầu, xổ mũi, rút gân,
Phù thủng sưng khắp tay chân, mặt mày,
Lưng gối mỏi, thiên thời, gió rét,
Bịnh đau răng, mũi ngẹt, trái ban,
Sưng phổi, cạn mật, héo gan,
Những bệnh hư thận nhiệt hàn cũng lo,
Cử đôi bịnh, nghiệm cho ra lẽ,
Dầu bịnh cơ nặng nhẹ khác nhau,
Nhưng mà đã phải vương đau,
Khổ thân chẳng biết tả sao cho cùng,
Ðời hay nói: “Ðau chân hả miệng”,
Ngoài thuốc thang còn chuyện dị đoan
Nhờ thầy bố trận, lập đàn,
Ông này, bà nọ cầu an đêm ngày,
Sợ có sự nạn tai dồn dập,
Cầu hỏi cho đặng gặp cơ duyên,
Hết lòng khấn vái chư Thiên,
Hộ căn bịnh ấy, giảm thuyên từ rày,
Vong cha mẹ trên mây, ngoài gió,
Hoặc ông bà, mà có hiển linh,
Xin về độ bịnh mạnh lành.
Sửa sang tế vật, lòng thành dâng cho
Bởi lầm lạc chẳng lo kinh kệ.
Mãi chuyên cần, tế lễ cầu xin.
Bịnh do nghiệp chướng của mình,
Há vì cúng quảy bịnh tình thoát sao,
Thân đã có, nguồn đau phải có,
Mãi tối tăm chẳng rõ hiệp tan,
Chúng sanh trong cõi thế gian,
Nặng nhẹ đều phải vương mang bịnh trần
Chỉ tránh khỏi có phần LA HÁN,
Cảnh NIẾT BÀN dứt nạn khổ đau,
Còn trong ba cõi trần lao.
Những sự chết, sống ốm đau là thường
Thấy bịnh hoạn cảm thương thân thế,
Cũng toan lo, tìm kế giải sầu,
Khổ đau càng thấm càng lâu,
Rồi đến khổ CHẾT bắt đầu dấn theo.
Khi khổ CHẾT đã gieo mầm dữ,
Thân chúng sanh mất sự thăng bằng,
Trẻ già đều phải hãi hùng,
Nhưng gần đến chết thì lòng hay quên,
Cơn hấp hối, run lên không dứt,
Khắp thân mình, thịt giựt, gân thun,
Tay chơn chuyển động vẫy vùng,
Ruột, gan, dao cắt vô cùng đớn đau,
Ngày tận số, lâu, mau đã tới,
Cái THỨC THẦN lìa với xác dơ,
Rồi thân ba khúc nằm trơ,
Toàn thây lạnh buốt, cứng rờ như cây,
Quyến thuộc vẫn trông thây than tiếc,
Người chết rồi còn có biết chi,
Thân kia đã gọi thây thi.
Con người ấy gọi là đi qua đời.
Khi đã chết không nhờ của cải,
Cùng vợ chồng, con cái, mẹ cha,
Anh em, quyến thuộc, gần xa,
Khó trông dīu dắt, cõi ma, một mình,
Thậm chí đến, đồng trinh cắc bạc,
Ðể trong môi, người thác theo lề,
Cũng không đem được dựa kề,
Cõi trần để lại, ra về HỒN không!
Quỹ VÔ THƯỜNG, vô song quyền thế
Giết chúng sanh bất kể gái trai,
Giết người chẳng lựa cho hay,
Dầu CHƯ THIÊN cũng bị tay vày vò,
Ðời sanh sống làm cho tiêu diệt,
Sát sanh linh chẳng biết xót than!
Chỉ trừ một cõi NIẾT BÀN
VÔ THƯỜNG chẳng dám lộn hàng đến đây,
Bởi chưng ở cảnh này tịch tịnh,
Ðầy yên vui chẳng dính bụi trần,
Phước báu to lớn muôn phần,
Chẳng hư, chẳng hoại là thân vàng ròng,
Tưởng chết sống, sanh lòng phiền não,
Muốn khỏi thì rán tạo phước duyên,
Cố công TRÌ GIỚI, THAM THIỀN,
Ðặng có kết quả, về miền AN VUI
Chớ hờ hững dễ duôi sự ác,
Ðừng để cho lầm lạc càng tăng,
Tỉnh liền, vun tưới thiện căn,
Nghiệp theo chẳng kịp, khi thăng NIẾT BÀN
Nếu lần lựa, muộn màng sanh hại,
Cũng đừng nên ỷ lại vào ai,
Bút thô (Buddho) một tiếng Tăng bày,
Trong cơn hấp hối, niệm sai, lạc đường.
Ta nên nhớ VÔ THƯỜNG, KHỔ NÃO,
Ðừng đợi cho nghiệp báo đến nơi.
Ðọa đày vừa lúc tắt hơi,
Bốn đường ác đạo đời đời khó ra,
Sự khổ chết, nguyên là nghiệp dữ,
Luật luân hồi, tử tử, sanh sanh.
Còn khổ quả báo sẵn dành,
Chính ta gây kết đã thành từ lâu,
Vô minh đã gieo sâu nhân ác,
Nhân đến hồi kết các quả sầu,
Do câu “THIỆN ÁC ÐÁO ÐẦU”
Về sau phải chịu, vui rầu chẳng sai.
Vì lầm lạc giữ hoài tâm ác,
Cõi trần này giết thác sanh linh.
Mà không một chút niệm tình,
Cứ làm việc dữ, tự mình không lo,
Vật có chủ, không cho cũng cắp,
Vợ con người, mê hoặc tà dâm
Tính toan mưu kế âm thầm
Chẳng kiên luât pháp, tối tăm làm liều,
Nói dối cũng một điều rất dữ,
Lòng phát ra miệng cứ nói đùa
Có người uống rượu say sưa,
Dầu ai thức tỉnh, không chừa thói quen.
Cõi hiện tại, nhúm nhen, ngũ nghiệp
Tánh xấu xa chẳng kịp đổi thay,
Chết rồi phải bị đọa đày,
Xuống nơi ÐỊA NGỤC chịu hoài nạn tai,
Các tội ác không sai một bước,
Bóng theo hình, cái trước, cái sau,
Nhân nào quả nấy, liền nhau
Mình gây mình chịu, ai vào giúp ta,
Bị quỷ sứ hành hà đánh đập,
Kéo lôi bừa, bầm dập, chẳng thương,
Lửa phiền thiêu đốt thịt xương.
Chết sống, sống chết luôn luôn không ngừng.
Sự khổ cực bởi thân ác báo,
Gái hay trai, đã tạo phải mang,
Cảnh này ác quả đã tan,
Sanh làm NGẠ QUỈ nhẹ nhàng đôi phân.
Giống ngạ quỉ toàn thân ghê tởm,
Ðói khát khao, hôm sớm nhe nanh,
Ăn ròng máu mủ hôi tanh.
Hết kiếp ngạ quỉ tái sanh lên đời.
Loài súc vật trên bờ dưới nước.
Lớn nhỏ, vì từ trước dễ duôi,
Ðành cam số phận hẩm hiu,
Làm những vật thực để nuôi mạng người,
Bắt giết hại mấy mươi chẳng tiếc,
Tàn sát cho đáng nghiệp hồi xưa,
Hành hình thảm khốc mới vừa,
Ðó là QUẢ BÁO có chừa chi ai,
Cũng có kẻ đầu thai THẦN QUỈ
A TU LA, NGẠ QUỈ khác chi,
Cũng đều đói khát nhiều khi,
Chịu chẳng biết mấy TĂNG KỲ [*] kiếp lâu
Kiếp quá khứ rất giàu tội khổ,
Tội khổ này chẳng bỏ sót ai,
Chúng sanh khắp hết bốn loài,
Thấp hóa, không hạn. Noản thai chẳng trừ,
Nhận ác đã gieo từ vô thỉ,
Quả xấu xa trực chỉ gieo mình,
Làm cho tất cả chúng sanh,
Mỗi kiếp phải chịu khổ hình như trên.
Cõi giả tạm dường tên thắm thoát,
Kiếp này qua, kiếp khác đến thay,
Rồi trong những kiếp vị lai.
Cũng là khổ não bao vây liền sát,
Khiến chúng sanh lầm lạc thêm hoài.
Vì chưa thoát khỏi trần ai.
Nên những nghiệp dữ không ngày nào xa.
Ðây ta thử xét qua hiện tại.
Chẳng khổ nào sánh lại khổ ăn,
Vì nhân đói khát, khó khăn,
Muốn cho no đủ, nên hằng phải lo,
Nghèo sạch đất, giàu to cũng thế.
Nhọc ưu tư, nào kể ngày đêm.
Có rồi lại muốn có thêm,
Bằng người chưa có cũng tìm cho ra,
Nếu biếng nhác ở nhà thong thả,
Ăn không lo, lỡ cả núi sông,
Mối ăn nặng cánh bên lòng.
Mãn nuôi mạng sống, dày công liệu lường,
Già chí trẻ vẫn thường lam lụng,
Làm kiếm ăn phải dụng tấm thân,
Xác thịt lẫn với tinh thần,
Khó khăn cũng chịu, nhọc nhằn cũng cam,
Bịnh đói khát hằng ngày vất vả,
Thuốc dầu hay, chẳng đã tật này,
Không được ăn uống, ốm gầy,
Càng lâu ắt phải bỏ thây cõi trần,
Ăn hay gấp mấy lần diệu dược,
Có ăn rồi, bịnh được giảm thuyên,
Chúng sanh dầu biếng cũng siêng,
Không sao tránh khỏi phải quyền sanh nhai.
Có kẻ rán cấy cày, đào, cuốc,
Luống chuyên cần, rẫy bái ruộng nương,
Kẻ thì làm mướn, bán buôn.
Biết bao khổ cực, luôn luôn một đời.
Người giàu có, thảnh thơi đôi chút.
Bởi từ xưa quả phúc vo tròn.
Cõi trần, hái trái ngọt ngon
Khỏe thân, nhưng cũng vẫn còn khổ tâm
Những khổ não đã lần lượt giải
Vắn tắt đây, đại khái tám điều
Chúng ta lấy đó làm nêu,
Gái trai cũng phải chịu điều khổ lao
Biết rõ khổ, ta mau thức tỉnh
Rán tu hành, Giới Ðịnh làm căn.
Mong cầu giải thoát trói trăn
Trần khổ xa tách nhẹ thăng Niết Bàn.

[*] Nói cho đủ là A Tăng Kỳ, nghĩa là vô số.)

MAṄGAGALASUTTARAMBHO.

Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā
bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇa-byāvatā sabbakālaṃ .

Ete āyantu devā varaka-nakamaye merurāje vasanto
santo santo sahetuṃ muni-varavacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ ,

sabbesu cakkavāḷesu
yakkhā devā ca brahmuno
yaṃ amhehikataṃ puññaṃ
sabba sampattisadhakaṃ .

Sabbe taṃ anumoditvā
samaggā sāsane ratā
pamādarahitā hontu
ārakkhāsu visesato.

Sāsanassa ca lokassa
vuḍḍhī bhavatu sabbadā
sāsanaṃ pi ca lokañca
devā rakkhantu sabbadā.

Saddhiṃ hontu sukhī sabbe
parivārehi attano
anīghā sumanā hontu
saha sabbehi ñātibhī.

Yañca dvādasa vassāni
cintayiṃsu sadevakā
cirassaṃ cintayantā pi
neva jāniṃsu maṅgalaṃ
cakkavāḷasahassesu
dasasu yena tattakaṃ
kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ
yāva brahmanivesanā.

Yaṃ lokanātho desesi
sabbapāpavinā sanaṃ
yaṃ sutvā sabbadukkhehi
muñcantā saṇkhiyā narā
evamā digunū petaṃ
maṇgalantaṃ bhaṇāmahe.

TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

Xin thỉnh tất cả chư Thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế giới này, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam Bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên, ngự trên Tu Di sơn vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên là bậc hiền triết (Sappurisa) đồng cư hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của đức Thích Ca Mưu Ni, là pháp vô lượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.

Sự phước báu mà chúng tôi đã làm, có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ Xoa, Chư thiên và Phạm thiên, trong cả thế giới Ta Bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.

Tất cả Dạ xoa, Chư thiên cùng Phạm thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật pháp. Xin dứt lòng dễ duôi và tùy phương tiện quí báu để hộ trì Phật pháp.

Cầu xin Phật pháp hằng được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa.

Cầu xin tất cả chư Thiên hộ trì Phật pháp và tiếp độ chúng sanh.

Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.

Tất cả nhơn loại cùng chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta Bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong mười hai năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm thiên trong khi ấy.

Ðức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và đã được dứt khỏi các sự thống khổ.

MAṄGALA SUTTA

Evam me sutaṃ .

Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ brū himaṅgalamuttamaṃ :

1- Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā pū jā ca pū janīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

2- Paṭirū padesavāso ca pubbe ca katapuññatā attasammāpaṇīdhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

3- Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito subhāsitā ca yāvācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

4- Mātāpitu upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

5- Dānañca dhammacariyā ca ñātakā-nañca saṅgaho anāvajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

6- Aaratī viratī pāpā majjapānā ca saññamo appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

7- Gāravo ca nivāto santuṭṭhī ca katañ-ñutā kālena dhammassavanaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

8- Khantī ca sovacassatā samanānañca dassanaṃ kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

9- Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccāna dassanaṃ nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

10- Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassanakampati asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā sabbattha sotthiṃ gacchanti tantesaṃ maṅgalamuttamanti.

HẠNH PHÚC KINH

Ta (là A nan Ðà) có nghe như vầy:

Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Ðộc, gần thành Xá Vệ (Sāvatthī)

Khi ấy, có vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.

Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:

Tất cả chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu xin được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.

Ðức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

1)
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ;
Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ;
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

2)
Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành đểdành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

3)
Một:nết hạnh của người được nghe nhiều, học rộng,
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia,
Ba: điều học mà người đã thọ trì được chính chắn,
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4)
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha,
Ba: sự tiếp độ vợ con,
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5)
Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,
Bốn: những nghề vô tội,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng,

6)
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu
Ba: sự không dể duôi Phật pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7)
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính,
Hai: nết hạnh khiêm nhường,
Ba: tri túc đến của đã có,
Bốn: nết hạnh biết ơn người,
Năm: nết hạnh tùy thời nghe pháp,
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8)
Một: sự nhịn nhục,
Hai: nết hạnh người dễ dạy,
Ba: nết hạnh được thấy các bậc Sa môn,
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật pháp,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9)
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,
Hai: nết hạnh hành theo pháp cao thượng,
Ba: nết hạnh thấy các pháp diệu đế,
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10)
Một: tâm không xao động vì pháp thế gian,
Hai: không có sự uất ức,
Ba: dứt khỏi tình dục,
Bốn: lòng tự tại,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Tất cả chư Thiên và nhân loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên này! Các người nên tin rằng cả ba mươi tám điều hạnh phúc ấy là hạnh phúc cao thượng.

RATANASUTTĀRAMBHO

Paṇidhānato paṭṭhāya tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo pañca mahāpariccāge tisso cariyā pacchimabbhave gabbhāvakantiṃ jātiṃ abhinikkhamanaṃ padhānacariyaṃ bodhipallaṅke māravijayaṃ sab- baññutaññāṇappativedhaṃ nava lokuttaradhammeti sabbe pime Buddhaguṇe āvajjitvā vesāliyā tīsu pākārantaresu tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā ānandatthero viya kāruññacittaṃ upaṭ-ṭhapetvā

Koṭisatasahassesu
cakkavāơesu devatā
yassānam-patigganhanti
yañca Vesāliyaṃ pure
rogāmanussadubbhikkha
sambhū taṃ tividhaṃ bhayaṃ
khippamantaradhāpesi
parittan tam bhaṇāmahe.

TỤNG BỐ CÁO KINH TAM BẢO

Chúng ta nên đem lòng từ thiện, đối với tất cả chúng sanh như đại đức A Nan Ða, đã suy tưởng đều đủ các công đức của Phật, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác là:

– Tu 10 pháp Pāramī
– 10 pháp Upapāramī,
– 10 pháp Paramatthapāramī.
– Năm pháp đại thí.
– Ba pháp hành.
– Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót.
– Tư cách ra đời,
– Tư cách xuất gia,
– Tư cách tu khổ hạnh,
– Tư cách cảm thắng Ma vương,
– Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ đoàn.
– Chín pháp Thánh,

Suy tưởng xong rồi, Ðại đức A Nan Ða tụng kinh Pāritta cả đêm, trọn đủ ba canh tại trong ba vòng thành Vesālī. Tất cả chư thiên trong mười muôn triệu thế giới Ta bà, đều được thọ lãnh oai lực kinh Pāritta. Kinh Pāritta đã làm cho ba điều kinh sợ phát sanh, là bệnh tật, phi nhơn và sự đói khát trong thành Vesālī được mau tiêu diệt.

Chư Thiên này, nay chúng tôi tụng kinh Pāritta ấy.

RATANASUTTA

1. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vāyāni va antalikkhe.
Sabbe va phū tā sumanā bhavantu
Atho’ pi sakkaccasunantu – bhāsitaṃ .

2. Tasmā hi phū tā nisāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pājāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā.

3. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Nano samaṃ atthi tathāgatena.
Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

4. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ pāṇītaṃ
Yadajjagā sakyamunī sāmāhito
Na tena dhammena samatthikiñci.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

5. Yam buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu.
Samādhinā tena samo na vijjati.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hontu.

6. Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā
Cattāri etāni yugāni honti
Te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā.
Etesu dinnāni mahapphalāni.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

7. Ye suppayuttā manasā daḷhena
Nikkāmino gotamasāsanamhi
Te pattipattā amataṃ vigayha
Laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

8. Yathindakhīlo paṭhaviṃsito siyā
Catū bhi vātebhi asampakampiyo.
Tathū pamaṃ sappurisaṃ vadāmi
Yo ariyasaccāni avecca passati.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

9. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
Gambhīrapaññena sudesitāni
Kiñcāpite honti bhusappamattā
Na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hontu.

10. Sahāvassa dassanasampadāya
Tayassu dhammā jahitā bhavanti
Sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañ ca
Sīlabbataṃ vāpi yadatthikiñci.
Catū hapāyehi ca vippamutto
Cha cābhitṭhānāni abhabbo kātuṃ.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthihotu.

11. Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ
Kāyena vācā yudacetasāvā
Abhabbo so tassa paṭicchadāya.
Abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccea suvatthi hotu.

12. Vanappagumbe yathā phussitagge
Gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe.
Tathū panaṃ dhammavaraṃ adesayi
Nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

13. Varo varaññū varado varāharo
Anuttaro dhammavaraṃ adesayi.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

14. Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ .
Virattacittāyatike bhavasmiṃ
Te khīṇabījā aviruơhichandā.
Nibbanti dhīrā yathā yampadīpo.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

15. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

16. Yānīdha bhū tāni samāgātāni
Bhummāni vā yāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

17. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vāyāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

KINH TAM BẢO

1. Hạng Phú Tá (Bhuta) là Chư Thiên, ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây.

Cầu xin tất cả Chư Phú Tá ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính, mà nghe Phật ngôn.

2. Tất cả Chư Phú Tá được nghe Kinh Ba Rít Tá rồi, nên mở lòng bác ái, đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí, đêm ngày không dứt.

3. Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian này, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Ðức Như Lai.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

4. Ðức Giáo chủ Sakya Muni là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là pháp bất diệt, là pháp cao thượng. Chẳng có vật chi sánh bằng pháp ấy.

Ðức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

5. Ðức Phật cao thượng hằng khen ngợi pháp Thiền định (Samãdhi) là pháp trong sạch.

Các bậc Trí Tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh định, là pháp sanh quả theo thứ tự, Thiền định khác, chẳng thể sánh bằng.

Ðức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

6. Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức (Sappurisa) đã ngợi khen, các bậc ấy, đều là Thinh Văn, đệ tử của Ðức Su Ga Tô các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

Những sự bố thí đến các bậc Ðắc-khí-nây-dá-búc-gá-la (Dakkhineyyapuggalā) là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.

Ðức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.

Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

7. Các bậc Thánh nhơn, trong giáo pháp của đức Chánh Biến Tri hiệu GOTAMA, đã hành theo lễ chánh rồi có lòng bền chắc chẳng còn ái dục.

Các bậc Thánh nhơn ấy, đã chứng quả A La Hán, đã nhập Niết Bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo quả rồi.

Ðức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

8. Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió bốn phương cũng không lay động thế nào.

Người hay suy xét, thấy các pháp diệu đế Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí thức, hạng không tham nhiễm các pháp thế gian. Ví như cột cừ kia vậy.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

9. Các bậc Thánh nhơn, thấy rõ các pháp diệu đế mà đức Như Lai, có trí tuệ thậm thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy, dầu có dễ duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi, quá 7 kiếp.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

10. Bậc được chứng Ðạo quả Tu Ðà Hườn, thì đã dứt khỏi ba phép chướng ngại thường có là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.

Bậc Tu Ðà Hườn, đã thoát khỏi cả bốn đường dữ không còn phạm 6 điều ác, là năm tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại đạo.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

11. Nếu bậc Tu Ðà Hườn, vô tâm phạm điều tội lỗi, do thân, khẩu ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm.

Nết hạnh của bậc đã thấy đạo Niết Bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà đức Phật đã giảng dạy rồi.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng, Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

12. Pháp cao thượng mà đức Chánh Biến Trí đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết Bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy, ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạ.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

13. Ðức Chánh Biến Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông pháp cao thượng, Ngài thí pháp cao thượng, Ngài đem đến pháp cao thượng.

Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

14. Nghiệp cũ của các bậc Thánh Nhơn, đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh.

Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nản trong việc thọ sanh, là bậc có trí tuệ, thường được viên tịch, cũng như ngọn đèn tắt vậy.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

15. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo chủ, đã được chứng quả giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại, thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

16. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp, đã có giống nhau, mà chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

17. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ chư Tăng, đã có giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại thường hay cúng dường, cầu xin đuợc phát sanh thạnh lợi.

BUDDHAJAYAMANGALAGĀTHĀ – KINH TÁM KỆ NGÔN

1.- Bāhuṃ sahassa mabhinimmitasāvu-dhantaṃ grīmekhalaṃ uditaghorasa-senamāraṃ dānādidhammavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

2.- Mārātireka mabhiyujjhita sabbarattiṃ gherampanāḷavaka-makkhamathad-dhayakkhaṃ khantīsudantavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

3.- Nāḷāgiriṃ gajavaraṃ atimatta-phū taṃ dāvaggicakkamasanīva sudāruṇantaṃ mettaṃ busekavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatute jayamaṅgalāni.

4.- Ukkhittakhaggamatihattha sudā-runantaṃ dhāvantiyo janapathaṅgulimāla-vantaṃ iddhīhisaṅkhatamano jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya maṅgalāni.

5.- Katvāna kaṭṭhamudaraṃ iva gab-bhiniyā ciñcāya duṭṭha vacanaṃ jana-kāyamajjhesantena somavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

6.- Saccaṃ vihāya matisaccaka vā-daketuṃ vādābhiropitamanaṃ atiandha-phū taṃ paññāpadī-pajalito jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.

7.- Nandopananda bhujagaṃ vibud-dhaṃ mahiddhiṃ puttena therabhujagena damāpayanto iddhū padesa-vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

8.- Duggāhadiṭṭhibhujagena sudaṭṭhahatthaṃ brahmaṃ visuddhi-jutimiddhi Bakābhidhānaṃ ñāṇāgadena vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

Etāpi buddha jayamaṇgala aṭṭhagāthā yo vācano dinadine sarate matandī hitvā nanekavividhāni cupaddavāni mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyyā naro sapañño.

VỀ SỰ CẢM THẮNG VÀ SỰ LÀNH CỦA ÐỨC PHẬT

1 – Ðức Phật cao thượng hơn các bậc trí tuệ, ngài đã cảm thắng Ma Vương, Ma Vương biến ngàn cánh tay đều cầm khí giới; cỡi voi Gri-mê-khá-lá đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ Phép Thập độ, nhất là Phép Bố thí mà đức Phật cảm thắng được Ma Vương.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

2 – Ðức Phật đã cảm thắng được Dạ Xoa A-la-quá-cá rất cang ngạnh, không lòng nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng đức Phật. Dạ Xoa rất hung ác, cảm dõng hơn Ma Vương đã bị Ðức Chánh Biến Tri dùng Phép Nhẫn nhục thâu phục rồi.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

3 – Ðức Phật đã cảm thắng voi Na-la-gi-ri đến cơn hung ác, dữ tợn như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng Từ bi mà Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được voi ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.

4 – Ðức Phật dùng Phép Thần thông cảm thắng Ăn-gú-lí-má-lá, kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay người xỏ làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt Ðức Chánh Biến Tri xa ba do tuần.

Do nhờ Phật lực này xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

5 – Ðức Phật đã khử trừ lời dữ của nàng Chinh Cha, nàng dùng cây tròn giống dạng dứa bé trong thai, giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng Phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng nàng giữa chốn đông người.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

6 – Ðức Phật sáng suốt nhờ ngọn đèn tuệ, Ngài đã cảm thắng kẻ ngoại đạo Sách-chá-cá là kẻ không ngay thật, chỉ ưa thích sự nâng cao lời nói mình như người dựng cột phū ớng, kẻ rất si mê, chẳng khác người mù.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

7 – Ðức Phật dạy Ðại đức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thâu phục rồng chúa Nan-đô-bá-nanh-đa, là rồng tà kiến có nhiều thần thông. Nhờ dạy Ðại đức Mục Kiền Liên mà Ðức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

8 – Ðức Phật đã cảm thắng Ðại-Phạm-Thiên Bá-ká tự cho mình là cao thượng vì đức trong sạch, có thần thông và chấp hẳn tà kiến. Nhờ Giác tuệ mà Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được Ðại Phạm Thiên ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

Những người có trí tuệ, không biếng nhác thường ngày hằng tụng hoặc niệm tám kệ ngôn tán dương oai lực của Ðức Chánh Biến Tri thì sẽ tránh khỏi vô số nạn tai và sẽ chứng quả Niết Bàn là nơi yên vui độc nhất.

GIRIMANANDA SUTTA – (Kinh Gi-ri-ma-nan-đa)

Ta nghe như vầy:
Một thuở nọ gần thành Xá Vệ.
Phật cùng hàng tử đệ ngự yên,
Tại nơi tịnh xá KỲ VIÊN
Của Cấp Cô Ðộc làm duyên cúng dường
Lúc ấy có người vương bịnh nặng
Thầy Tỳ Khưu Gi-Ri-Ma-Nan-Ða
Chịu nhiều đau đớn thiết tha,
Xót thương Ðại Ðức A Nan Ðà trình bày
Vào đến chốn Như Lai an ngự,
Ðảnh lễ rồi cớ sự bạch qua
Rằng Gi-Ri-Ma-Nan-Ða (Girimananda)
Thầy vương chứng bịnh trầm kha não nùng
Bạch THẾ TÔN mở lòng bác ái
Dời gót vào đến tại thất riêng
Cứu thầy trong lúc ngửa nghiêng
Vì chưng bịnh hoạn triền miên lâu ngày.
Liền lúc đó NHƯ LAI bèn dạy,
A-NAN-ÐA người phải thẳng qua
Chỗ thầy Gi-Ri-Ma-Nan-Ða,
Truyền mười pháp tưởng của ta chỉ bày,
Pháp tưởng ấy tánh hay khước bịnh.
Chẳng luận là căn bịnh chóng chầy.
Nếu Gi-Ri-Ma-Nan-Ða,
Ðược nghe lập tức bịnh thầy giảm thuyên.
Mười pháp tưởng linh thiêng bao nả?
Tưởng những là Vô Ngã, Vô Thường,
Bất Tịnh lại đức tình trường.
Sự Khổ dứt bỏ thói thường cho xong,
Tưởng Tịch tịnh, tưởng không tham luyến.
Pháp thế gian lắm chuyện thị phi.
Tưởng đến những pháp hành vi.
Ðiều vô thường hết có chi bận lòng.
Lại để ý đến trong Hơi thở.
Cho đủ mười điều nhớ của ta.
Này, A-NAN-ÐA.
Tưởng vô thường ấy nghĩa là làm sao?
Này, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây.
Hoặc nhà thanh vắng, không ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Sắc, Thọ, Tưởng liên dây, Hành thức.
Ðều vô thường một mực như nhau.
Ngũ Uẩn chẳng luận Uẩn nào.
Tỳ Khưu tưởng thấy biến mau không thường.
Nầy, A-NAN-ÐA.
Tưởng Ngũ Uẩn vô thường là vậy.
Như Lai cho tưởng ấy vô thường.
Nầy, A-NAN-ÐA.
Còn tưởng Vô Ngã con đường thế nào?
Nầy, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây.
Hoặc nhà thanh vắng, không ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Mắt cùng các sắc đây một cuộc.
Chẳng phải là vật thuộc của tạ.
Tai và các tiếng gần xa.
Cũng là chẳng phải của ta đâu nào.
Mũi lại với các mùi cả thảy.
Ðều ở ngoài, chẳng phải của ta.
Lưỡi cùng các vị phớt qua.
Thật đó chẳng phải của ta chớ lầm.
Thân thể với các mần đụng cọ.
Chớ đảo điên cho đó của ta.
Tâm cùng Pháp hà sa.
Cũng đều chẳng phải của ta mỗi phần.
Tỳ Khưu tưởng căn trần như thế.
Ngoài phạm vi, chẳng kể của ta.
Này, A-NAN-ÐA.
Pháp tưởng vô ngã đó ta đã bày.
Này, A-NAN-ÐA.
Tưởng bất tịnh là điều chi vậy?
Này, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu tưởng thấy trong thân.
Bắt từ ngọn tóc xuống chân.
Có da bao bọc chung quanh cả mình.
Trong chứa vật nhiều hình, nhiều dáng.
Khác khác nhau nhưng đáng gớm ghê.
Tóc, lông với móng, răng, da.
Thịt, gân, xương tủy, ruột già, ruột non.
Thận, tim gan, da non, lá lách.
Phổi, phẩn, đàm, nước mắt, mồ hôi.
Mật cùng vật thực chưa tiêu.
Dầu da, mủ, máu, rất nhiều phần dơ.
Mỡ, nhớt, mũi, chẳng bao giờ thiếu.
Nước miếng cùng nước tiểu dẫy đầy.
Tỳ Khưu tưởng các vật này.
Vẫn không sạch sẽ trong thây con người.
A-NAN-ÐA vậy ngươi cố nhớ
Pháp ấy là tưởng sợ thân ta.
Này A-NAN-ÐA.
Tưởng sự khổ ấy tưởng là làm sao?
Này, A-NAN-ÐA
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây,
Hoặc nhà thanh vắng không ai,
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Thân thể có dẫy đầy khổ não.
Tội lỗi gây quả báo về sau.
Bịnh căn khốn khó nhức đau.
Những bịnh hoạn ấy kể sao cho cùng.
Như bịnh phát phần trong tai mũi,
Trong thân hình, trong lưỡi trong đầu
Trong miệng, trong bụng, đâu đâu.
Ngoài tai, ngoài mũi, khắp hầu châu thân.
Bịnh ho, suyễn, gầy lần, bịnh nóng.
Bịnh chơn răng, các giống lác, cùi.
Bịnh bướu, sải, mụn, lôi thôi.
Bịnh phong, lao, tổn, vô hồi khó toan.
Bịnh chóng mặt, trái ban, thổ huyết.
Trĩ, đinh san, chi xiết thúi tha.
Âm san, ghẻ phỏng ngoài da.
Ðau bụng, bịnh tả, cùng là đàm xanh.
Bịnh đau máu dễ thành chứng nặng.
Bịnh mật đau, huyết trắng, phong đàm.
Bịnh bón, bịnh lậu, không kham.
Phong lở, đau mật, gió làm cho đau.
Bịnh thời khí, bịnh do đánh đập.
Do nghiệp duyên dồn dập từ xưa.
Do lạnh, do nóng không ưa.
Do đói, do khát, chẳng chừa một nhân.
Tưởng tội khổ trong thân như thế.
Pháp ấy là tưởng khổ thân ta.
Này, A-NAN-ÐA,
Còn tưởng dứt bỏ nghĩa là làm sao?
Nầy, A-NAN-ÐA
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp,
Không có lòng thọ Pháp dục chi.
Cố làm tiêu tán dứt đi.
Không cho sanh Dục-tư-duy thường tình.
Không thọ lãnh lại đành dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng có chút chi.
Không cho sanh Hận-tư-duy.
Thứ lòng cố chấp nghĩ suy oán thù.
Không thọ lãnh hận thù dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng có chút chi,
Không cho sanh Khốn-tư-duy.
Thứ lòng khốn khó nghĩ suy thật hành.
Không thọ lãnh lại đành dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng có dư dành.
Không cho nghiệp dữ phát sanh.
Nghiệp dữ đã có không thành nhiều thêm.
Này, A-NAN-ÐA.
Pháp ấy gọi tưởng về dứt bỏ.
Này, A-NAN-ÐA.
Tưởng dứt tình dục nghĩa là làm sao?
Này, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp,
Ở trong rừng, ở dựa cội cây,
Hoặc nhà thanh vắng không ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Dứt tình dục, nơi đây bất diệt.
Là Niết Bàn trừ diệt sở hành.
Dứt bỏ phiền não chẳng sanh.
Ðoạn trừ ái dục cội căn tuyệt rồi.
Niết Bàn ấy vô hồi tịch tịnh.
Pháp môn này cao thượng sâu xa.
Này, A-NAN-ÐA.
Tưởng dứt tình dục đó ta giáo truyền.
Này, A-NAN-ÐA.
Tưởng tịch tịnh, cơ duyên sao đó?
Này, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu trong giáo pháp này.
Ở rừng hoặc dựa cội cây.
Trong nhà vắng vẻ tưởng suy như vầy:
Pháp tịch mịch nơi đây bất diệt.
Là Niết Bàn trừ diệt sở hành.
Dứt bỏ phiền não chẳng sanh.
Ðoạn trừ ái dục cội căn tuyệt rồi.
Niết Bàn ấy vô hồi tịch tịnh.
Pháp môn này cao thượng sâu xa,
Này, A-NAN-ÐA.
Ðó là pháp tịnh mà ta giáo truyền.
Này, A-NAN-ÐA.
Sao gọi tưởng không duyên thế giới?
Này, A-NAN-ÐA.
Cái tâm này mong đợi, chấp nương.
Ái dục; với kiến thức thường.
Ðoạn kiến cùng những vị phiền thế gian.
Cái tâm ấy thuộc hàng tâm ác.
Thầy Tỳ Khưu trong pháp của ta.
Khi nào bỏ pháp ấy ra,
Không lòng cố chấp, tránh xa được rồi.
Này, A-NAN-ÐA,
Pháp ấy gọi tưởng thôi, không tiến.
Hoặc là không tham luyến thế gian.
Này, A-NAN-ÐA.
Còn tưởng hành tác vô thường là sao?
Này, A-NAN-ÐA.
Hàng Tỳ Khưu thầy nào chán nản.
Hoặc gớm ghê chẳng quản hành vi.
Này, A-NAN-ÐA.
Ðó Như Lai gọi hành vi vô thường.
Này, A-NAN-ÐA.
Thế nào gọi niệm thường hơi thở?
Này, A-NAN-ÐA.
Thầy Tỳ Khưu hoặc ở trong rừng.
Trong nhà hoặc dựa cội cây.
Nên ngồi nhắm mắt; thân ngay im līm.
Ý chơn chánh để tìm Thiền định.
Khi mọi bề yên tịnh thản nhiên,
Chú tâm đề mục tham thiền.
Nhớ biết rõ rệt, thở vào thở ra.
Thở ra dài, cùng ra hơi vắn.
Thở vô mà có vắn hay dài
Hơi vô cũng nhớ vắn dài phân minh.
Thầy Tỳ Khưu chuyên tình ròng rã.
Nhớ biết rằng: Ta đã rõ ta.
Là người biết hơi thở ra.
Niệm xong rồi mới thở ra từ từ,
Thầy Tỳ Khưu cũng như thế ấy.
Cứ chuyên cần nhớ thấy hơi vô.
Biết rằng: ta rõ hơi vô.
Niệm xong rồi mới thở vô lần lần
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần ròng rã.
Nhớ biết rằng: ta đã biết ta.
Là người diệt hơi thở ra.
Niệm xong rồi mới thở ra từ từ.
Thầy Tỳ Khưu cũng như thế ấy.
Cứ chuyên cần, nhớ thấy hơi vô.
Biết rằng: ta diệt hơi vô.
Niệm xong rồi mới thở vô lần lần.
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần một mực.
Ta biết rằng: ta thật biết rành,
Những điều, thọ sướng, vui mừng.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.
Thầy Tỳ Khưu cũng là một mực.
Tự biết rằng; ta thật biết rành.
Những điều thọ sướng, vui, mừng.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vô.
Thầy Tỳ Khưu tâm đồ chuyên chú.
Tự biết rằng: rõ thú yên vui.
Phân minh biết được rõ rồi.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.
Thầy Tỳ Khưu cũng là một mực.
Nhớ biết rằng: ta thật biết mùi.
Của các thú vị yên vui.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vô.
Thầy Tỳ Khưu quan hô, sát hấp.
Tự biết là rõ khắp tâm hành.
Biết cho rõ rệt đành rành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở ra.
Thầy Tỳ Khưu tâm đà tinh tấn.
Cố chuyên cần đặng phấn chí lành.
Biết rằng: ta rõ tâm hành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở vô.
Thầy Tỳ Khưu quan hô, sát hấp,
Tự biết rằng: diệt tắt tâm hành.
Biết cho rõ rệt đành rành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở ra.
Thầy Tỳ Khưu tâm đà tinh tấn.
Cố chuyên cần đặng phấn chí lành.
Biết rằng: ta diệt tâm hành,
Niệm xong rồi mới thật hành thở vô.
Tỳ Khưu không mơ hồ chán nản.
Vẫn tinh cần, thanh sảng luôn luôn.
Biết rằng: ta đã rõ tâm.
Niệm xong rồi mới âm thầm thở ra,
Tỳ Khưu tự biết ta thành thiệt.
Vốn là người đã biết rõ tâm.
Biết cho rõ rệt không lầm.
Niệm xong rồi mới âm thầm thở vô.
Thầy Tỳ Khưu trong mô phạm ấy.
Vẫn chuyên cần nhớ thấy rằng ta,
Làm tâm được thơi thới ra.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở ra
Thầy Tỳ Khưu cũng là thế ấy.
Vẫn chuyên cần nhớ thấy rằng ta.
Làm tâm được thơi thới ra.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở vô,
Thầy Tỳ Khưu nên phô nhẫn nại.
Chuyên cần rằng: ta phải giữ tâm.
Quân bình trong các cảnh trần.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.
Thầy Tỳ Khưu cũng như là trước,
Chuyên cần rằng: ta giữ được tâm.
Quân bình trong các cảnh trần.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vô,
Thầy Tỳ Khưu nguyện cho hăng hái,
Tinh cần rằng: ta giải thoát tâm.
Khỏi Pháp chướng cái cả năm.
Niệm xong rồi mới đầm đầm thở ra.
Thầy Tỳ Khưu tỏ ra hăng hái
Tinh cần rằng: Ta giải thoát tâm
Khỏi Pháp chướng cái cả năm.
Niệm xong rồi mới đầm đầm thở vô.
Thầy Tỳ Khưu xét vô thường biến.
Rằng: ta hằng, thấy hiện tinh tường.
Ngũ uẩn đều là vô thường.
Niệm xong rồi mới mở đường thở ra.
Thầy Tỳ Khưu cũng là thế đó,
Rằng: ta hằng thấy rõ tinh tường.
Ngũ uẩn đều là vô thường.
Niệm xong rồi mới mở đường thở vô,
Tỳ Khưu để, tâm vô đề mục;
Rằng: Pháp trừ tình dục mà ta,
Là người hằng được thấy qua.
Niệm xong rồi mới thở ra lần lần.
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần đề mục.
Rằng: Pháp trừ tình dục mà ta,
Là người hằng được thấy qua.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở vô.
Thầy Tỳ Khưu, tự cho hằng thấy.
Pháp tịch tịnh, pháp ấy được yên,
Khỏi điều thống khổ triền miên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi ra,
Thầy Tỳ Khưu rằng: Ta hằng thấy,
Pháp tịch tịnh, pháp ấy được yên.
Khỏi điều thống khổ triền miên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi vô.
Thầy Tỳ Khưu tự cho thấy rõ.
Những pháp lành dứt bỏ ưu phiền,
Chuyên cần niệm chẳng trì duyên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi ra.
Thầy Tỳ Khưu rằng: Ta thấy rõ
Những pháp lành dứt bỏ ưu phiền,
Chuyên cần niệm chẳng trì duyên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi vô.
Này, A-NAN-ÐA.
Ðiều ấy gọi niệm vô hơi thở.
Này, A-NAN-ÐA.
Nếu người vào chỗ bịnh nhân.
Của GI-RI-MA-NAN-ÐA.
Ngươi nên giảng giải pháp ta chỉ bày.
Mười pháp tưởng nhân hay diệt bịnh,
Làm cho thầy GI-RI-MA-NAN-ÐA.
Chỉ trong giây phút thoáng qua.
Căn bịnh thuyên giảm chắc là không sai.
Liền theo đó A-NAN-ÐA học.
Pháp tưởng này của Ðức Thế Tôn.
Rồi đem truyền đến Sa Môn.
Người đương bịnh hoạn dập dồn bấy lâu.
Nhờ nghe được Pháp mầu quán tưởng.
Bịnh của thầy GI-RI-MA-NAN-ÐA.
Giảm thuyên rồi khỏi hẳn ra.
Chỉ trong giây phút thoáng qua không chầy.
Diệt căn bịnh của thầy trầm trọng,
Chính cho thầy GI-RI-MA-NA-ÐA.
Ðược nghe pháp tưởng sâu xa.
Phật truyền cho đức A-NAN-ÐA giải bày.

PHẬT CẢM THẮNG MA VƯƠNG

Tiết Ngươn Tiêu trời đông thêm sáng.
Nhà nhà đều sửa soạn trang hoàng,
Thảy đều tâm trí hân hoan,
Thích Ca thành đạo vẹt màn vô minh.
Ðức Giáo Chủ công trình tỏ rạng.
Là ngày Phật cảm thắng Ma Vương.
Chúng tôi đồng ý lo lường,
Cuộc lễ kỷ niệm cúng dường đêm nay.
Hoa đủ thứ chưng bày rực rỡ.
Thêm nhang đèn sáng tợ sao sa,
Thành tâm dưng cúng Phật đà.
Cầu cho tứ chúng thuận hòa bình an.
Ðây xin kể vài trang lai lịch,
Ðức Bổn Sư sự tích rõ ràng,
Lục niên khổ hạnh cơ hàn,
Bồ đề dưới cội, chẳng màng tước Vương.
Lòng mộ đạo tìm đường giải thoát,
Tâm từ bi tự giác, giác tha,
“Sanh, già, đau, chết, cho tra,
Bằng không tìm thấy chẳng xa chỗ này”.
Vì đại chí Ðức Thầy đắc đạo,
Ma Vương hay táo bạo làm sai.
Quyết lòng cùng Phật tranh tài.
Binh ma tướng quỉ mười hai do tuần,
Khi được lịnh lẫy lừng la hét.
Ðám Ma Vương dùng hết thần thông,
Kẻ thì mình thú đầu rồng,
Mắt dòm thủng đất thân trông dị hình,
Còn chúa tướng phân binh bao phủ,
Biến ngàn tay cầm đủ báu ngà,
Cỡi voi như núi xông ra,
Vang rền tiếng hét cõi xa hãi hùng.
Chư Thiên sợ không trung xa lánh,
Nhưng Thế Tôn tự tánh viên thông,
Ngài ngồi, day mặt hướng đông,
Thân không xao động tâm mong cứu đời,
Ma Vương lại dùng lời hăm dọa,
Sĩ Ðạt Ta mau trả bồ đoàn,
Bằng không tánh mạng chẳng toàn.
Mau ra khỏi đó cựu bang phản hồi.
Trên bồ đoàn Phật ngồi trầm tĩnh,
Như Phạm Thiên nhập định chẳng nao.
Ma Vương “ngươi tạo kiếp nào?”
Ðâu là chứng cớ hãy mau phân tường.
Ðã không chứng Ma Vương chẳng ngại.
Sẵn tướng binh chỉ đại cho rồi,
Ma Vương, ngươi chớ nhiều lời.
Những điều vô lý nói thời ích chi,
Bồ đoàn mọc, quả tùy nhân trước.
Ba La Mật là phước của ta,
Nghiêng đầu ngó xuống nói ra.
Trái đất là chứng của ta đó mà,
Ðất chuyển động nghe ra ghê sợ.
Tỏ ý rằng chứng cớ có thừa.
Thế Tôn nhớ lại kiếp xưa,
Giàu lòng đại thí thấy thừa ấm no,
Tên trước Quê Sanh Tô nhớ kỹ;
Bố thí cho tám vị bàn môn,
Tâm Ngài mát mẻ luôn luôn,
Voi Mê Khá Lá chạy tuôn lại quỳ.
Lúc ấy tâm từ bi Ngài rải.
Bọn Ma Vương đều phải tránh xa.
Chư Thiên thế giới ta bà,
Tiêu thiều nhạc thổi hát ca vui mừng,
Ðồng tỏ ý cúng dường lễ bái.
Rồi cùng nhau trở lại chỗ mình,
Phật ngồi nhắm mắt làm thinh.
Tham thiền đắc Túc mạng Minh buổi đầu.
Bao nhiêu kiếp quá lâu đều rõ,
Trời, thú, người, lớn, nhỏ kiếp xưa,
Bốn A tăng kỳ cũng chưa,
Thêm trăm ngàn kiếp mới vừa đến đây,
Ðến nửa đêm rồi Ngài quả đắc,
Thiên nhãn Minh được chắc thấy rồi.
Chúng sanh, sanh tử, luân hồi,
Không ngừng do nghiệp cuốn lôi quả lành.
Rạng đông Lậu tận Minh Ngài đắc,
Ðều rung rinh chuyển lắc núi sông.
Dường như cảnh vật cũng đồng,
Hân hoan, đắc quả thành công Phật thầy.
Cây cối thảy trổ đầy bông trái,
Chim muôn đều múa nhảy reo ca.
Vui mừng biến động xảy ra.
Do Ngài đắc đạo đó mà phát sanh.
Khi Bồ Tát đắc thành Chánh Giác,
Tâm đại bi đã phát sanh ra.
Ngài đi khắp cõi Ta Bà,
Ðặng lo phương cứu, khổ mà chúng sanh.
Năm điều Ngài thật hành Phật luật,
Buổi sáng ra khất thực trì bình.
Chẳng phân sằn giả, thị thành,
Quân, dân, giàu, khó đều xin khắp cùng.
Chinh xế thuyết pháp cùng đánh thức.
Chúng sanh rõ lộ thực Niết Bàn,
Tối hội Tỳ Khưu các hàng,
Giải rành kinh luật sẵn sàng hy sanh.
Chớ thối thác việc lành nào cả,
Dầu nhỏ to chớ khá bỏ qua,
Lúc khuya Thiên chúng đến mà,
Hỏi điều nghi ngại cho ra tỏ tường.
Gần sáng lúc Ngài thường suy xét,
Ðặng tìm cho rõ biết căn nguyên,
Chúng sanh nào có căn duyên.
Xem ra thật đáng độ liền chẳng sai,
Thuở lão niên Phật, Ngài ngự quá.
Trong vườn, thành Vương Xá ít lâu,
Rồi sang qua xứ Vê Lu.
Trót ngàn người đến lễ hầu vấn an.
Trong lúc ấy Ngài đang thọ bịnh.
Nhưng vẫn còn bình tĩnh như thường.
Cũng không rên xiết bi thương,
Do nhờ quán tưởng vô thường thanh cao.
Ðức A Nan liền vào bạch Phật,
Nay Thế Tôn bịnh nặng thật rồi.
Con đây lo sợ bồi hồi,
Nhưng Ngài sắp nhập lên nơi Niết Bàn.
Xin Thế Tôn lời ban cho biết,
Bằng làm thinh quả quyết không sao,
Phải chăng chưa rõ âm hao,
Xin Ngài bày tỏ bề nào cho xong
A Nan đã có lòng nguyện vọng,
Cầu cho ta bịnh trọng giảm đi.
Chẳng nên quyến luyến làm chi,
Thân già này phải có kỳ bỏ thôi.
Như xe cũ mục rồi cũng thế,
Muốn xài phải tái chế mới xong,
A Nan, chớ tính viễn vong,
Ðến việc đó nữa mà lòng thêm nao.
Mình tự lấy dồi trau toàn thiện,
Ðừng để tâm thối chuyển đi thôi,
Phước lành ngươi khá tô bồi,
Nay ta dạy bảo mấy lời bạch minh.
Rằm tháng Miệt vào thành Vương Xá,
Khất thực và độ đã xong rồi,
Sang nơi thanh tịnh nghỉ ngơi.
Nền tháp Ba Qua là nơi sẵn sàng.
Bề săn sóc A Nan lo liệu,
Cho đến đường đại tiểu đủ điều,
Vì từ bi Phật bèn kêu,
A Nan, như có mệt nhiều nghỉ đi.
Vâng lời dạy bèn đi nghỉ thật,
Ma Vương vào lễ Phật nghiêm trang.
Thỉnh Ngài mau nhập Niết Bàn,
Phật rằng ta đã tính toan an bài:
Ba tháng nữa Như Lai nhập diệt.
Ma Vương đừng cố chấp việc ni.
Phật nói vừa dứt liền khi.
Ðất nước cây núi tức thì chuyển rung,
Nổ vang, thảy như đồng tỏ ý,
Không muốn Ngài nhập nghỉ Niết Bàn,
A Nan kinh sợ chẳng an,
Bèn vào bạch Phật cho rành việc chi.
Phật thuật lại rằng vì ta hứa,
Chỉ còn ba tháng nữa chẳng lâu,
Ma Vương đã đến thỉnh cầu.
Niết bàn hứa nhập đã âu định kỳ,
A Nan bạch xin trì hoãn lại.
Thêm ngày giờ rộng rãi về sau.
Thế Tôn rằng: “Chẳng đặng đâu”.
Một lời ta hứa khó hầu đơn sai.
Rằm tháng Miệt là ngày nhắc lại.
Từ quá khứ, hiện tại, vị lại,
Chư Phật hội lại, thường hay.
Phật ngôn diễn giải tỏ bày giác tri.
Kinh Ô Qua Ðá Ba Ti Mốt Khá,
Ðược giải bày đủ mặt Thánh Tăng,
Sự hội hiệp ấy gọi rằng,
Là kỳ đại hội Thánh Tăng, nhóm kỳ
Phật xưa hội ba lần mỗi vị,
Ðức Thích Ca hội chỉ một lần,
Ngàn hai năm chục Thánh Tăng,
“Ê Hí Phích Khú” tạo nhân phước nhiều.
Không mời thỉnh thảy đều đến dự.
Hội Thánh Tăng đông đủ xa gần:
Ðúng ngày hội họp một lần.
Không sau, không trước oai thần thêm tăng,
Chư Thánh Tăng thiện căn đầy đủ,
Chùa Trúc Lâm Giáo Chủ Thích Ca,
Lập thành thánh hội Tăng Già,
La Hán quả đắc cả mà Thánh Tăng.
Hàng đệ tử đại căn đủ cả.
Kỳ hội này chứng quả đứng trên,
Hai vị đệ tử có tên,
Ðắc A La Hán nhập lên Niết Bàn,
Mục Kiền Liên ngày sang thứ bảy,
Xá Lợi Phất cũng lại tới phiên,
Ngày thứ mười lăm tiếp liền,
Niết Bàn đồng nhập đặng yên hai Ngài.
Rằm tháng tư là ngày Phật nhập.
Công Ðức Ngài độ khắp cũng vừa.
Ðến đây quả phước có thừa,
Niết Bàn Ngài nhập lúc vừa rạng đông.
Chúng tôi thảy hết lòng ngưỡng mộ,
Sanh sau khi diệt độ của Ngài.
Tâm thành dưng cúng đêm nay,
Ngưỡng cầu kết quả đến ngày vô sanh,
Nay Tăng chúng thừa hành giáo pháp,
Của cha lành đã nhập Niết Bàn,
Thiện nam, Tín nữ lưỡng ban.
Xin chia vui, khổ, nhiệt, hàn cùng Tăng.
Tu hành rán siêng năng thành thật,
Ðặng ngày sau sau gặp Phật kế Ngài,
Di Lạc Phật Tổ vị lai.
Cùng nhau chung hưởng phước hoài bền lâu.
Chúng tôi thảy cúi đầu lễ bái,
Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.
Mong cầu giáo pháp còn hoài,
Tứ chúng hòa hiệp hoằng khai đạo mầu.

PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Thuở Phật bảo tám mươi tuổi thọ,
Bốn mươi lăm (45) hạ võ vẹn toàn.
Lúc Ngài gần nhập Niết Bàn,
Còn châu du, độ khắp hàng sanh linh.
Thành Ba Qua (Pāvā) hành trình tân khổ,
Cùng học trò vào độ năm trăm.
Chi nài bao dặm xa xăm,
Vì thương nhơn loại vĩnh trầm thế gian.
Ðến chốn ngự dưới tàng cây cả,
Giữa vườn xoài của gã Chuôn Ðá (Cunda).
Chủ vườn thấy rõ Phật Ðà,
Nỗi mừng chẳng có chi mà cân phân.
Ðến trước Phật ân cần đảnh lễ,
Bạch thỉnh Ngài, tôn thể ngự an.
Phật bèn thuyết pháp răn khuyên,
Giải rành đạo quả độ liền chủ nhân.
CHUÔN ÐÁ được ngộ phần diệu pháp,
Thỉnh Thế Tôn cùng Giác Thinh Văn.
Về nhà bố thí trai Tăng,
Sắm sanh thực phẩm thành tâm cúng dường.
Món thịt lợn mùi hương vị hậu,
Dâng Thế Tôn tỏ dấu hân hoan.
Phật dùng nhưng vẫn lo toan,
Biết là thịt độc cấm đoàn Tỳ Khưu.
Sợ liên lụy Ngài mưu dứt hại,
Dạy thịt dư kíp phải chôn ngay.
Lễ xong trở lại vườn xoài,
Thọ bịnh kiết lỵ tại ngày hôm nay.
Bịnh trầm trọng thêm hoài không dứt,
Lỵ nhiều lần hết sức chuyển di.
Nhưng Ngài nhẫn nại ra đi,
Dắt Tăng chúng giả chốn ni khởi hành,
Qua nước khác, đồng thanh trực chỉ.
Nhắm sang thành Kú-Sí-Na-Ra, (Kusinārā)
Dặm trường cách trở còn xa,
Thế Tôn mệt nhọc rẽ qua bên đường,
Ðã nóng nảy lại thêm khát nước.
Dưới cụm rừng dừng bước nhìn quanh,
Thấy nước vẫn có gần bên,
Truyền A Nan múc dâng lên Ngài dùng.
A Nan lại bạch cùng Ðại Giác.
Rán đến gần chốn khác múc dâng.
Nước đây đục lộn cặn bùn.
Vết xe thương mãi muôn trùng vừa qua.
Ðức Thế Tôn thiết tha nhiều lượt.
Rằng: Ta đương khát nước lắm ôi!
A Nan thương Phật vô hồi.
Mang bình múc nước đục, rồi dâng lên,
Lạ thay nước trở nên trong sạch.
Nhờ phước Ba la mật của Ngài.
Ðộ rồi, cũng vẹt góc gai.
Băng rừng, tẻ tắt, một ngày đến nơi.
Tới quốc độ, mòn hơi kiệt lực,
Thế Tôn vào lập tức vườn hoa,
Của vua Kú-Sí-Na-Ra,
Muôn phần tốt đẹp, cỏ hoa đủ màu.
Song Long thọ nhành giao mát mẻ,
Tảng đá to, đẹp đẽ, chỉnh tề.
Ðứng ngay giữa rạng sum suê,
Truyền A Nan trải tăng già lê Ngài nằm.
Khi an ngọa đầu nhầm hướng Bắc,
Nằm nghiêm mình day mặt Tây phương.
Thế Tôn nhứt định một đường,
Ðến giờ nhập diệt vẫn nương chốn này.
Ân đức cảm đôi cây Long thọ,
Trổ hoa lành ý tỏ cúng dường.
Dạy A Nan kíp lên đường.
Tâu vua MÁ-LÁ ngài tường âm hao,
Rằng Như Lai đã vào vườn ngự;
Xin chốn này để dự Niết Bàn,
Vua nghe sắm sửa vội vàng.
Nhằm vườn Thượng Uyển ngài sang lạ y mầng.
Trên thiên sàng Phật gần đuối sức,
Vắn tắt lời độ bậc Chí Tôn.
Mãi chiều khuất bóng hoàng hôn,
Vua về với một tâm hồn ủ ê.
Ðem khuya khoắt, tứ bề vắng vẻ,
Bỗng một chàng lặng lẽ từ xa.
Gã này tên SU-PHÁCH-ÐA (Subhadda),
Xin vào yết kiến Phật Ðà một phen.
Vị Chánh Ðẳng đang yên tịnh trí.
Nên A Nan sở dĩ cản ngăn,
Phật hay bèn dạy A Nan.
Muốn hỏi kinh luật, cho chàng vào đây,
Dáng sợ sệt vẻ đầy cung kính.
Lạy Phật rồi trấn định ngồi an,
Nghiêng đầu hướng đến thiên sàng.
Hỏi Phật những việc nghi nan của mình,
Bạch Ðại Giác thuyết minh Chánh giáo,
Có Sa Môn ngoài đạo của Ngài.
Pháp hành có được lâu dài.
Tâm Phật có vọng, sợ hoài hay không?
Tùy lời hỏi, đáp rằng không có,
Nhóm Sa Môn ngoài ngõ Như Lai.
Pháp hành thật chẳng lâu dài,
Tâm Phật chỉ có yên hoài mà thôi,
Chẳng sợ hãi, dứt rồi vọng móng,
Sanh như chơn của giống phi cầm,
Bay trong không khí bao năm,
Chẳng rơi dấu tích khá tầm trên không,
Su-Phách-Ða dứt lòng nghi ngại,
Nghe pháp rồi cúi lạy Thế Tôn.
Xin Ngài cho phép nhập môn,
Xuất gia theo đạo bảo tồn căn cơ.
Phật cho phép rồi nhờ đạo hữu,
Lễ xuất gia thành tựu buổi này.
Ấy là học trò chót đây.
Lễ xong Phật dạy cho thầy cần chuyên.
Sú-Phách-Ða tham thiền nhập định,
Cố gắng cho yên tịnh nỗi lòng.
Chỉ trong chốc lát cần công.
Ðắc A La Hán suốt thông hoàn toàn.
Thắm thoát đã đêm trường đúng nửa.
Phật mở lời dạy sửa chư Tăng
Lấy điều kinh luật làm răn,
Cùng là Tam Học phải hằng nhớ ghi.
Bấy nhiêu đó, giáo di tối hậu.
Rồi Ngài cho hiểu thấu sự tình.
Rằng trời vừa đúng bình minh,
Như Lai ắt nhập vô sinh Niết Bàn.
Khắp đệ tử về hàng La Hán,
Khi nghe rồi chỉ quán nén thương,
Vô ngã, Khổ não, Vô thường.
Ba tướng xét rõ nhờ đường huệ minh.
Riêng A Nan liên thinh kêu khóc,
Bỏ ra đi dựa gốc cửa ngoài.
Kể rằng: Ðại Giác hỡi Ngài,
Rất nhiều ơn đức cao dày lắm thay,
Nỡ nào chẳng đoái hoài, dứt bỏ,
Vội nhập vô lượng thọ Niết Bàn,
Con đường tấn hóa dứt ngang,
Thật vô thường, mới hiệp tan không chừng.
Thế Tôn hỡi! Dửng dưng bao nả,
Chính tôi đây ròng rã phụng thờ.
Nhưng xét cho đến bây giờ,
Chưa đắc La Hán, biết chờ bao lâu!
Lúc ấy Phật cất đầu lên ngó,
Dạy chư Tăng ra ngõ kêu vào.
Dùng lời an ủi thanh cao,
Rằng A Nan hỡi ! Bớt nao tấm lòng.
Ngươi chớ khá hoài công hối tiếc,
Thói thường tình nên diệt cho an.
Sau khi Ta nhập Niết Bàn,
Về sau Tăng chúng lập đàn niệm kinh.
Ngươi sẽ được thông minh sáng láng,
Ðắc đạo thành La Hán chẳng sai,
Phủ dụ A Nan an bài,
Rồi Phật lại dạy! Hỡi này A Nan.
Pháp luật vốn con đàng siêu việt,
Tam học điều pháp thiệt của Ta.
Như Lai đã diễn giải ra.
Các hàng Phật tử nhớ mà hành theo.
Còn tại thế Ta gieo giống quí
Ðem pháp lành rải chí các loài.
Hành theo giải thoát nạn tai,
Ba đường kết quả lâu dài an vui.
Về sau chớ dễ duôi biếng nhác,
Ta tịch rồi chơn pháp là Thầy.
Chơn pháp Như Lai giải bày,
Nếu đem phân loại vắn dài định san.
Tám muôn với bốn ngàn pháp thiệt,
Ðộ sanh linh tiêu diệt trầm oan.
Như vầng trăng tỏ rõ ràng,
Chiếu khắp ba cõi vẹt màn u minh,
Khắp các giống hữu tình nam nữ,
Cả Thiện nam, Tín nữ, Tăng Ni.
Nếu tu vào đạo trở đi,
Mà vâng giữ đúng pháp di giáo truyền.
Mới được gọi cần chuyên nghiêm chỉnh,
Ðem hết lòng thờ kính Thế Tôn,
Làm cho Phật pháp trường tồn,
Chẳng hư chẳng hoại một môn Pháp nào.
Ðó là cách tối cao dâng cúng,
Còn quí hơn thờ phụng viễn vong.
Khi Ngài thuyết pháp vừa xong.
A Nan bạch hỏi cho thông lẽ này.
Như sau lúc đức Thầy nhập diệt,
Táng thi hài, công việc làm sao.
Câu hỏi thiệt rất thanh cao?
Ðể cho đệ tử cùng nhau thiệt hành.
Nhưng Ðức Phật vội vàng ngăn cản,
Ðức A Nan chẳng nản chí mình.
Hỏi đôi ba lượt, liên thinh.
Thế Tôn Ngài mới niệm tình dạy cho,
Nếu có người đến lo tang lễ,
Ngươi bảo, theo thể lệ Ðại Vương,
Xác vua, Hoàng tộc vẫn thường,
Dùng toàn vải trắng nhiều trương bao tròn.
Bao bọc kỹ để vào hòm sắt,
Rưới nước hoa cùng khắp trong ngoài,
Ðể hòm lên giữa hỏa đài,
Nổi lửa thiêu đốt, thi hài cháy tan,
Sau hỏa táng, tro tàn, xương sót,
Lượm hốt đem vào tháp an bài.
Cho người chiêm bái hằng ngày,
Sớm được tấn hóa, lâu dài bình an.
Ðó hậu sự vẹn toàn cơ thể,
Ðức Thế Tôn thành thế an phần
Rồi kêu Tăng chúng lại gần,
Ngài đem chơn lý phân trần thiệt hơn.
Này Tăng chúng chớ sờn tấc dạ
Giờ Niết Bàn nay đã tới nơi,
Nên ta vắn tắt mấy lời,
Các ngươi nên nhớ trọn đời chớ quên.
Vì tạo tác, sanh lên ba cõi,
Dầu thú, người, chẳng khỏi một phen.
Rã tan chẳng luận sang hèn,
Hữu sanh hữu diệt thói quen thường tình.
Các ngươi hãy đinh ninh suy xét,
Rán phụng hành những Pháp cao siêu.
Mau cho thành tựu đủ điều,
Mựa đừng giải đãi mất nhiều thời gian.
Phải cố gắng tu hành thành thật.
Ðặng kịp khi có Phật Pháp truyền,
Vì chưng ít được cơ duyên,
Gặp Pháp quí báu, như thuyền độ cho.
Căn dặn bảo học trò vừa dứt,
Ðức Thế Tôn lập tức định an,
Nhập luôn vào cõi Niết Bàn,
Vui miền Cực Lạc, giữa hàng Thinh Văn.
Chúng tôi thảy băn khoăn nhớ tiếc,
Sanh sau khi nhập diệt của Ngài,
Lòng thành lễ Phật hôm nay,
Ngưỡng cầu tấn hóa đến ngày vô sanh.

TIỂU SỬ PHẬT THÍCH CA

Kính lạy Phật từ bi quảng đại,
Vì chúng sanh muôn loại đảo điên,
Luân hồi khổ não triền miên,
Mời tìm phương giải lửa phiền đốt thân,
Kính lạy Pháp nguồn ân khôn trả.
Nẻo quang minh mô tả rõ ràng,
Ðời còn lắm kẻ lầm than,
Nên thuyền Bát Nhã sẵn sàng đợi đưa
Kính lạy Tăng người thừa chí cả,
Thay Thế Tôn hoằng hóa đạo mầu,
Vô minh khỏi phải lo âu,
Rọi đèn cứu khổ dẫn đầu chúng sanh.
Trước điện Phật tâm thành đảnh lễ,
Ðệ tử nguyền xin kể một thiên,
Sử Ngài từ buổi ấu niên,
Ðến khi đắc quả làm duyên độ dời.
Trải bao kiếp chơi vơi bể khổ,
Dốc một lòng phổ độ chúng sanh.
Phước vừa nên quả tốt lành,
Từ cung Ðâu Suất thoát sanh xuống trần
Trung Ấn Ðộ cung Tần trổi nhạc.
Khánh thanh bình hoan lạc vua tôi.
Chỉ còn Hoàng Hậu hiếm hoi,
Ðêm ngày cầu nguyện phước trời ban cho.
Cảnh tịch mịch đắn đo phận xấu,
Ðức MA DA Hoàng Hậu âu sầu.
Một mình trằn trọc đêm thâu,
Bên tai vẳng tiếng trống lầu trở canh.
Trí vẩn vơ chợt thành giấc mộng,
Thấy mây lành linh động năm màu.
Ðỡ con bạch tượng lớn cao,
Sáu ngà hùng dũng húc vào bên hông,
Chợt tỉnh lại giấc nồng uể oải,
Thuật mấy điều kinh hãi làm sao,
Vua nghe chưa biết lẽ nào,
Ðợi bình minh đến lâm trào sẽ hay.
Trống long phụng dằng dai vừa dứt,
Ðiện Cửu trùng lập tức ngự ra.
Ðức vua SÚT-THÔ-ÐÁ-NA, (Suddhodana)
Hạ lời phán hỏi bốn nhà Khâm Thiên.
Ðiềm mộng ấy dữ hiền bao nả,
Chư hiền khanh thong thả luận bàn.
Bá quan quì trước trào đàng,
Tung hô cung chúc Thánh hoàng tường tri
Mừng vận nước CA-BÌ-LA-VỆ, (Kāpīlavatthu)
Sau các vị chúa tể hiền minh.
Chiêm bao điềm ấy rất lành,
Quyết rằng Hoàng hậu trong mình thọ thai,
Ngày tháng tợ tên bay thấm thoát,
Gần đến kỳ thập ngoạt cưu mang.
Cung nga xe giá sẵn sàng,
Lịnh đức Hoàng hậu cựu bang lâm bồn.
Giục gió câu bôn chôn hạng mã,
Vầy một đoàn vội vã hồi hương.
Xe đi vừa được nửa đường,
Chọn nơi nghỉ tại vườn LUM-BI-NI.
Màu cây cỏ đang thi rực rỡ,
Trăm thứ hoa đua nở nực nồng.
Hiếu kỳ Hoàng hậu hái bông.
Thai nhi chuyển động xổ lồng một trai.
Ðức vua vốn đêm ngày mong mỏi,
Ðược tin mừng vội gọi thị thần.
Các ngươi khá kíp ân cần,
Kiệu loan đến rước lầu tần hồi qui.
Trổ Hoàng Tử phương phi diện mạo.
Vui tưng bừng huyên náo quốc gia.
Ðặt tên là SĨ-ÐẠT-TA. (Siddhattha)
Lửa hương nối Gô-Ta-Ma họ Ngài.
Bữa sau lại có thầy đạo sĩ,
A-SÍ-TA tâm trí khác thường.
Thoáng nghe tán đấng hiền lương.
Ðến thành dâng biểu xem tường Ðông Cung.
Rất đẹp dạ cửu trùng chuẩn tấu.
Lịnh truyền cho Hoàng hậu trong tòa.
Mau bồng Thái Tử ngự ra.
Xem xong thầy mới tâu ra mấy lời.
Bởi Thánh Thượng phước trời dành để.
Sau Ðông Cung chín bệ nối ngôi,
Bốn phương thiên hạ làm tôi,
Băm hai (32) tường lạ quí thôi ai bì.
Bằng đến lớn Ngài vì mộ đạo,
Quyết một lòng khoác áo tu hành.
Ắt là thành Phật siêu sanh,
Xét cho thật kỹ số đành xuất gia.
Vua nghe lạ hỏi qua mọi lẽ,
Vì cớ chi phân kể đôi đường.
Thầy rằng Thái Tử khi tường,
Bốn điều hiện tượng tìm đường thoát thân. [*]
Ðương giữa lúc xa gần vui vẻ,
Tại đâu vui chia rẽ phụng loan.
Thảm thay nguyệt khuyết hoa tàn,
Ðau lòng ly biệt lụy tràn tuôn rơi.
Xanh lồng lộng màn trời một tấm.
Trắng minh mông biển thắm bao la.
Ô hô! Hoàng Hậu MA-DA,
Bảy ngày sanh sản vừa qua thăng hà.
Con còn nhỏ vợ đà khuất bóng,
Dưỡng ấu nhi hướng vọng vào nàng,
GÔ-TA-MI thứ hậu đảm đang
Tận tâm giáo dưỡng Tử Hoàng từ đây.
Năm sáu tuổi tuyển thầy học hỏi.
Toàn bậc kỳ tài giỏi chuyên môn.
Ðông cung được nức tiếng đồn,
Văn hay võ giỏi tính khôn lạ đời.
Thấy tánh trẻ sớm thời đỉnh ngộ.
Nhớ lời thầy bàn số năm xưa.
Vua bèn kiếm cách ngăn ngừa.
Giữ sao Thái Tử sớm trưa trong lầu.
Xây ba tòa đài cao lộng lẫy.
Chọn gái trai đồng thảy một trang.
Cho cùng Thái Tử hiệp đoàn.
Vui vầy bạn tác an nhàn thâm cung.
Vừa mười sáu (16) hình dung tuấn tú.
Ðức Ðông Cung khí vũ hiên ngang.
Vua cha kén gái nhành vàng.
Con vua một nước lân bang cùng Ngài.
Bề đức hạnh đành ai sánh lại.
Thấm hoa nhường liễu ngại kém xinh.
Mặt mày đầy vẻ đoan thanh.
Cưới cho Thái Tử duyên lành xứng đôi.
Vua cha lại nhường ngôi cửu ngũ.
Thêm cung gia bài thú ca xang.
Trà khuya rượu sớm bĩ bàng,
Ðủ mùi phú túc cao sang trên đời.
Già vững dạ dụng mồi trần thế,
Nhưng tân quân nào có kể chi.
Chẳng qua ăn thuở ở thì,
Một lòng hiếu thuận phải tùy vua cha.
Tâm Ngài đã cách xa thế tục,
Hăm chín (29) xuân câu thúc buộc ràng.
Một hôm tâu lịnh phụ hoàng,
Xin cho ra khỏi hoàng cung xem thời.
Vua cha dạy khắp nơi y lịnh,
Buộc kẻ già người bịnh tránh xa.
Cửa Ðông xe giá dạo qua,
Người người lòe loẹt cửa nhà tốt xinh.
Vui cảnh vật tâm linh thơi thới,
Ấy bước đầu Ngài mới trải sang.
Bỗng đâu lại thấy bên đàng,
Một già lụm cụm võ vàng xanh xao.
Hỏi thị vệ người sao lại thế?
Quan hầu gần kính nể tâu qua.
Người sanh ắt phải có già,
Nghe buồn trở lại trí đà vẩn vơ.
Già lụm cụm mắt lờ tai điếc,
Thời tráng niên oanh liệt còn đâu.
Bực mình Ngài xét nông sâu,
Bâng khuâng như oán như sầu nỗi riêng.
Già ám ảnh không yên tấc dạ,
Lại dạo chơi khuây khỏa tâm hồn.
Xe ngài ra phía Nam môn,
Xem cho biết cách sanh tồn dân gian.
Thấy trăm họ lầm than vất vả,
Chẳng mấy người nhàn nhã yên vui.
Thoạt Ngài gặp một kẻ cùi,
Ðầy mình lở lói tanh hôi khôn cùng.
Buồn nung nấu Hoàng cung trở lại,
Phán hỏi rằng bởi tại cớ sao.
Thị thần giải tỏ âm hao,
Có thân phải chịu ốm đau tật nguyền.
Bịnh tật khổ chẳng kiêng giàu khó.
Cái ách chung nào có riêng ai.
Nghiệp trần nhiều nỗi đắng cay,
Thê lương Ngài những vắn dài thở than.
Gẫm bịnh khổ lòng vàng ái ngại.
Lấp cơn sầu Ngài lại dạo chơi.
Thành Tây xe giá tới nơi
Non xanh nước bích khắp trời thanh tươi.
Bước ruổi dung đương vui cảnh vật,
Bỗng bên đường thấy một tử thi.
Ðiểu cầm cấu xé chẳng vì.
Ðể Ngài khán tận thây thi rõ ràng.
Vóc khô khan trông cùng thảm đạm.
Sắc dợt xanh thê thảm khác thường.
Cảnh tình trông rất thê lương,
Trở về Ngài những bi thương nhọc nhằn.
Ðời là khổ muôn ngàn cảnh khổ.
Bịnh, chết, già thêm chỗ biệt ly,
Thân người nào có ra gì.
Phải chăng cỏi tạm khi đi lúc về,
Buồn dồn dập tràn trề tâm thảm.
Nỗi niềm riêng nặng cảm bên lòng.
Cuộc đời có có không không.
Muốn vui lại khổ còn mong làm gì.
Suy cạn lẽ kiếp thì đáng chán,
Cõi phù sanh ngao ngán hằng ngày,
Biết sao tránh khỏi nạn tai,
Tìm chưa ra lẽ nên Ngài dạo chơi,
Ra cửa Bắc lòng hơi hoan lạc,
Cảnh thôn quê mộc mạc, thiên nhiên.
Mãn vui tạm dập nỗi phiền,
Thình līnh Ngài thấy trước hiên một Thầy.
Ðã thế phát, vẻ đầy nhàn lạc,
Thân đắp y mang bát đi ra.
Trông người đức hạnh ôn hòa,
Tâm vui lẽ đạo thân xa sự đời.
Lịnh đình giá buông lời phỏng vấn,
Vì cớ chi ăn bận khác thường.
Thầy rằng: tôi sải du phương,
Tu mong thoát khỏi con đường tử sanh.
Mừng khắp khởi nghe rành lẽ đạo,
Cũng căn duyên cơ xảo gặp Thầy.
Bỏ công tìm kiếm đêm ngày,
Nay đà gở được mối dây lo sầu.
Dường thấu lẽ nhiệm mầu tạo hóa,
Truyền thị thần vội vã trở ra.
Về thành tâu lịnh vua cha,
Nay con quyết chí xuất gia tu hành.
Cha hết dạ ân cần than thở,
Con nỡ nào bỏ vợ lìa cha,
Rồi đây một tấm sơn hà,
Lấy ai toan liệu nước nhà chung lo.
Thêm vương tước DÁ-SÔ-THÁ-RA.
Ðương hoài thai nay đã muộn màng.
Sao đành dứt nghĩa tào khang.
Con đi ắt để cho nàng sầu bi,
Lòng quả quyết tâu quì trước bệ.
Nếu vua cha có thể tính xong.
Ba điều con chỉ ước mong.
Ðừng già, đau, chết con trông ở đời.
Thấy con trẻ không dời chí nguyện.
Làm vua cha liệu biện rối bời.
Truyền cho quân lính khắp nơi.
Ðêm ngày canh giữ không rời Hoàng cung.
Phải một nổi cha không ưng thuận…
Lại thê nhi cũng bận thửa lòng,
Âm thầm gạn đục lóng trong,
Ðể chờ cơ hội thoát vòng trói trăn.
Lửa càng dập càng tăng sức cháy.
Mối đạo tâm phát mãi nhiều lần.
Duyên kỳ hầu đã đến gần.
Khiến nên có bốn Thiên thần đến trêu
Hóa hình người đặng khêu lòng đạo.
Nhắc cho Ngài bịnh, lão, tử, Tăng.
Viêm lương dày xéo trói trăn,
Tiếc chi những cái không cần phải lo.
Giờ khắc qua mau so tên vút,
Hoàng hậu đà đến lúc trổ hoa,
Sanh trai khuôn đúc giống cha
Từ đây có RA-HẦU-LA nối dòng.
Vui thay buổi vợ chồng, đoàn tụ,
Hạnh phúc này tròn đủ một tòa,
Vui này dường gió thoảng qua,
Trí Ngài vơ vẩn xuất gia tu hành.
Rày quyết chí thật hành lẽ đạo,
Nhân Hoàng cung huyên náo trào thần.
Yến diên thiết đãi quan quân,
Nên bề canh giữ kém phần khắc nghiêm.
Mất dịp may không tìm lại đặng,
Ngài mật truyền căn dặn CHANH-NA. (Channa)
Ðêm nay vừa lúc canh ba,
Thắt yên “Kiền Trắc” đợi ta ngoài vườn.
Tạm cất lạc dáng cương chực sẵn,
Y lịnh truyền lẳng lặng thi hành.
Còn Ngài cất bước dạo quanh,
Bồi hồi như thể chim xanh mắc lồng.
Giờ khắc hỡi! Càng trông càng chậm,
Mãi ven trời màn thẩm phù dung.
Bước lần vào đến thâm cung,
Chực nhìn Hoàng hậu giấc nồng đương an.
Thấy vắng lặng vội vàng ra các,
Bước thản nhiên khí phách không vừa.
Bỗng Ngài nhớ lại buổi trưa,
Ðã sanh Hoàng tử mà chưa xem tường.
Trở bước lại bên giường xem mặt,
Giã vợ con an lạc nơi tòa.
Quay mình mạnh dạn bước ra,
Dẹp sầu Ngài nhắm vườn hoa tiến hành.
Ðường vắng vẻ đêm thanh gió lạnh,
Rạng chơn trời một mảnh gương nga,
Tuyết Sơn dạng lố xa xa,
Thầy trò lên ngựa bôn ba khởi hành.
Buông tay khấu lên gành xuống thác,
Nẻo xa xăm man mác cõi lòng;
Quạ vàng đổ lửa trời Ðông,
Ghìm cương xuống ngựa rừng tòng tạm an.
Cổi áo mão đai cân châu ngọc,
Trao cho chàng nghĩa bộc tin yêu.
Người mau lên ngựa về triều,
Tâu qua Hoàng phụ mấy điều của ta.
Lạy vua cha thân già an dưỡng,
Lấp cơn sầu chớ tưởng chi con.
Sau này quả phước được tròn,
Ðắc đạo về độ cha còn gặp con.
Liền cắt tóc hư không nhắm liệng,
Ngó theo lằn, Ngài nguyện một lời.
Sau dầu chí cả không dời,
Khiến nên mớ tóc đừng rơi xuống trần.
Trời Ðế Thích đích thân thâu nhập,
Ðạo Lợi cung vào tháp miên trường.
Từ đây thầy tớ chia đường,
Tớ về thầy lại qua Vương Xá thành.
Nơi rừng vắng tu hành lánh tục,
A-LA-RA cùng ÚC-ÐA-CA.
Hai thầy truyền đạo sâu xa,
Từ đây gọi GÔ-TA-MA là Ngài.
Tu theo cách đọa đày khổ hạnh,
Nào nhịn ăn, chịu lạnh hãm mình.
Chỉ lo cầu Sám niệm Kinh,
Ðủ điều khắc khổ công trình xiết bao.
Hầu hết sức đạo sao chẳng tỏ,
Lẽ tử sanh chưa rõ nguyên nhân,
Ðắn đo tính thiệt so hơn,
Biết không thấu đặng lý nhơn nhiệm mầu.
Chịu thất bại mong cầu nơi khác.
Tách riêng rồi tìm các rừng sâu.
Một mình hành đạo lần đầu,
Thanh cao oai đức phục thâu năm trò.
Rừng khổ hạnh Ú-RÚ-HUÊ-LÁ.
Chịu nhọc nhằn ròng rã tháng ngày,
Dầu bao khổ cực chi nài.
Tham thiền lại với năm thầy Trần Như.
Luống định trí trầm tư mặc tưởng.
Cuộc ảo huyền ảnh hưởng từ đâu.
Quanh năm thức suốt đêm thâu,
Cơm ngày một hột dãi dầu nắng mưa.
Lòng tinh tấn sớm trưa không nghỉ.
Thân mỏi mòn thần chí không dời.
Khắc khe gần sáu năm trời,
Một hôm dường phải đứt hơi cuối cùng,
Ngất một lúc ung dung lại tĩnh.
Rồi cũng ngồi thiền định xét suy.
Ta tu khổ hạnh ích gì,
Hành thân hoại thể được chi mà hòng.
Suy nghĩ chính rồi không dụ dự.
Ðã quyết lòng bỏ sự nhọc công,
Lần hồi Ngài đến bên sông,
Tắm xong thân thể dường không vướng trần
Dịp may có một nàng gái tín,
Dâng cho Ngài cơm chín sữa dê.
Ăn rồi cầm bát mân mê,
Hư không lại nguyện tỉ tê một mình.
Nếu đạo quả công trình phải được,
Khiến bát này trôi ngược dòng sông.
Nguyện rồi liệng bát giữa dòng,
Lạ thay cái bát ngược dòng trôi lên.
Trôi một khúc chìm liền xuống đáy,
Nức tiếng vang chạm phải bát xưa.
Từ đây vững dạ có thừa,
Mỗi ngày ăn một buổi trưa như thường.
Năm đệ tử xem dường thấy lạ,
GÔ-TA-MA rày đã ngã lòng,
Thôi đành bỏ gã cho xong,
Nhắm vườn Lộc Giã thong dong trở về.
Riêng Ngài lại chẳng hề sợ nhọc.
Vào rừng sâu dựa gốc Bồ Ðề.
Ngồi yên Ngài phát lời thề.
Nếu không đắc quả không hề dậy đi.
Ngồi thiền định đang khi yên tịnh.
Mới đêm đầu nhập định dễ dàng.
Muôn trùng ánh sáng hào quang.
Chơn như hiển hiện vẹt màn vô minh.
Tâm sáng suốt thức linh nhớ kỹ
Canh một dùng trí tuệ xét rành.
Kiếp Ngài từ mới cấu sanh.
Tinh tường hiểu rõ sự tình thế gian.
Canh hai lại xét sang nỗi khổ.
Nguyên nhân đưa vào chỗ luân hồi.
Tử sanh, sanh tử không rời,
Sáu đường ba cõi cuốn lôi rõ ràng.
Nguyên nhân khổ con đàng để diệt.
Mãn canh ba giải quyết mới xong,
Sao Mai vừa mọc trời đông.
Nghiễm nhiên Ngài đắc Lục-thông hoàn toàn,
Thành Chánh Giác oai vang rực rỡ.
Ma vương, cùng thầy tớ đều trừ.
Bốn mươi chín bữa trầm tư.
Rừng này tạo hưởng Hữu dư Niết Bàn,
Thiên thần mách hai chàng đến lễ.
BẠC-LỆ-CA, DA-LỆ-PHÙ-BA,
Trước Ngài dừng bước lân la.
Cúng dường lễ Phật xin làm Thiện Nam
Phật muốn thâu đồ đem dâng cúng,
Ngặt tay không sử dụng làm sao.
Phạm Thiên biết ý hiện vào,
Kính dâng bát đá để sau Ngài dùng.
Dưới Bồ đề ung dung suy nghĩ.
Ðạo ta tầm sở dĩ cao thâm,
Chúng sanh là hạng tối tăm.
Làm sao hiểu thấu ta tầm truyền ra,
Ðại Phạm Thiên kinh la chẳng xiết.
Thôi chúng sanh tiêu diệt còn đâu.
Ba lần hiện đến khẩn cầu,
Thế Tôn nhậm ý, bắt đầu khai duyên.
Dời chốn ấy về miền LỘC GIÃ.
KIỀU TRẦN NHƯ năm gã ngồi hầu.
PHÁP LUÂN, Phật chuyển lần đầu,
Năm thầy tỏ ngộ phục thâu rõ ràng.
Nối kế tiếp hàng ngàn đệ tử,
Khuyến hóa người bỏ dữ theo lành.
Ngày ngày mang bát xin ăn,
Ðạo mầu vô thượng phổ hoằng thế gian.
Vua hay con hoàn toàn đắc quả,
Sai người qua VƯƠNG XÁ thỉnh về.
Triều thần nghinh tiếp chỉnh tề,
Phụ vuơng cố ép Phật về ngôi vua.
Dùng đạo lý hơn thua bày vẽ,
Nên vua cha hiểu lẹ vô cùng.
Chỉ còn Hoàng hậu Ðông cung,
Thấy Ngài tủi phận không ngừng lụy rơi.
Trước cảnh ấy Phật thời thuyết pháp,
Ðộ vợ con cùng khắp trào đường.
Rồi Ngài lại cũng du phương,
Vì thương nhân loạn còn đương khổ nàn.
Bốn mươi lăm năm tràng đăng đẳng,
Cứ độ dời Ngài chẳng biếng lười.
Ðến khi tuổi chẳn tám mươi,
Tuy già cũng rán độ người trầm oan.
Trước ba tháng lên đàng tịch diệt,
Dạy học trò chớ có tiếc chi.
Miễn lời giáo huấn nhớ ghi,
Tử sanh công lệ chẳng chi phải buồn.
Tuy đau yếu, dạy luôn không nghỉ.
Lần về thành KÚ-SÍ-NA-RA.
Giữa đường gặp BÚT-CA-SA.
Y vàng dâng cúng Phật đà nhận thâu
Ðem y ấy mặc hầu cho Phật.
A-NAN-ÐA thấy thật rõ ràng.
Trong người Phật phóng hào quang.
Làm cho y mất sắc vàng lộ ra.
Phật cho A-nan-đa biết chắc.
Ðời NHƯ LAI biến sắc hai lần,
Ðêm Thành đạo, đêm Niết bàn.
Ðêm nay Phật ắt vào đàng bất sanh,
Cùng đệ tử đồng hành đến tận.
Rừng SA-LA kế cận NI-LIÊN.
Phật lên tảng đá nằm nghiêng.
Ðầu day hướng Bắc, Tây thiên trông về.
Dặn đệ tử mựa hề sơ thất.
Ta tịch rồi KINH LUẬT là Thầy
Ân cần tin giữ hằng ngày
Rán tu cho thoát nạn tai cõi trần.
Dặn vừa dứt gom thần nhập định.
Rồi vào luôn tịch tịnh NIẾT BÀN.
Còn thây dùng lửa thiêu tan.
Lấy tro đem để tháp vàng thờ chung.

(lạy)

[*] Bịnh, Lão, Tử, Tăng

KARAṆĪYA METTĀ SUTTAṂ – TỪ BI KINH

1) Karaṇīya matthakusalena
Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca suhujū ca
Suvaco c’assa mudu anatimāni.

2) Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nippako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho.

3) Na ca khuddaṃ samācare kīñci
Yena viññū pare upavadeyyuṃ
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

4) Ye keci pāṇaphū tatthi
Tasā vā thāvarā vā anavasesā
Dīghā vā ye mahantā vā
Majjhimā rassakānukathưlā

5) Diṭṭhā vā yeva addiṭṭhā
Ye ca dưre vasanti avidū re
Bhū tā vā sambhavesi vā
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

6) Na paro paraṃ nikubbetha
Nātimāññetha katthacinaṃ kiñci
Byārosanā patighasaññā
Nāñña maññassa dukkha miccheyya.

7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
Āyusā ekaputtatamanurakkhe
Evampi sabbaphū tesu
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ .

8) Mettañca sabba lokasmiṃ
Mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ
Uddhaṃ ādho ca tiriyañca
Asambādham averam asapattaṃ .

9) Tiṭṭhaṃ caram nisinno vā
Sayāno vā yāvat’assa vigatamiddho
Etaṃ satiṃ addhiṭṭheyya
Brahmametaṃ vihāraṃ idha māhu.

10) Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā
Dassanena sampanno
Kămesu vineyya gedhaṃ
Nahijātu gabbhaseyyaṃ puna reti’ti.

Phiên dịch ra Việt ngữ:

1 – Người khôn lanh hằng tìm lợi ích cho mình và muốn đạt tới chỗ yên lặng (là Niết Bàn). Là người chánh trực, hoàn toàn chánh trực, nhu thuận, hiền lương và khiêm tốn.

2 – Biết kiên tâm, thủ phận thanh bần, ít phận sự, thu thúc lục căn, thận trọng, không liều lĩnh, không mê luyến gia đình.

3 – Không làm điều quấy nhỏ nhen nào mà các bậc trí tuệ hằng phê bình chỉ trích. Hằng mong muốn cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc an vui và đầy đủ tinh thần tráng kiện.

4 – Hằng mong muốn cho tất cả chúng sinh, không dư sót, bất luận yếu mạnh, dài vắn, trung bình, béo gầy, nhỏ lớn.

5 – Hữu hình hoặc vô hình, ở xa hoặc ở gần, đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra, đều có một tinh thần hoan lạc.

6 – Chẳng hề lừa dối kẻ khác, chẳng khinh miệt người nào, bất cứ nơi đâu. Trong cơn phẫn nộ hoặc buồn phiền, chẳng hề toan tính hại kẻ khác.

7 – Luôn luôn có lòng bác ái rộng lớn bao la đối với tất cả chúng sinh, chẳng khác nào một bà mẹ bảo tồn đứa con duy nhất dám hy sinh thân mạng vì con.

8 – Hằng rải tư tưởng lành vô biên cùng khắp thế giới, bên trên, bên dưới, khoảng giữa, không chướng ngại, không thù oán không ác cảm.

9 – Trong khi tỉnh thức, lúc đi đứng nằm ngồi, hằng chuyên trì niệm niệm. Phương ngôn cho đó là một hạnh kiểm cao cả thế gian.

10 – Không tà kiến, có giới đức, đắc tuệ nhãn, đoạn tuyệt tình dục. Theo Chân Lý, người như thế không còn thọ sanh vào bào thai nữa.

TỪ BI KINH

(Phỏng dịch xuôi vần theo bài giảng của Ðại đức Narada.)

1. Người khôn có đủ đức tài,
Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.
Dọn lòng an tịnh thanh bình
Tiến vào Cực lạc Vô sinh Niết Bàn
Giữ lòng chánh trực đoan trang,
Nhu hòa lương thiện chẳng màng khoe khoang,

2. Thanh bần thủ phận an nhàn,
Không ham thế sự tịnh an cõi lòng.
Lục căn chế ngự nghiêm phòng,
Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần.

3. Không làm nhơ bẩn tinh thần,
Tránh lời chê trách thánh nhân phê bình,
Mong cầu tất cả chúng sinh,
Dồi dào hạnh phúc hòa bình sinh nhai.

4. Cầu cho ba giới bốn loài,
Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài bình trung.
Béo gầy nhỏ lớn không cùng,
Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa.

5. Chưa sanh hoặc đã sanh ra
Thảy đều cộng hưởng hà sa phước lành.

6. Nguyện không lừa gạt, dối manh,
Khinh người, miệt chúng, hư danh trang hiền.
Dầu cho thân thuộc, xóm giềng,
Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.
Trong cơn phẫn nộ giận thầm,
Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người.

7. Như lòng từ mẫu thanh tươi,
Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.
Dầu cho một mất một còn,
Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi.
Tình thương ghi tạc đời đời,
Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.
Học đòi từ mẫu gương vàng,
Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa.
Chúng sanh trong cõi Sa bà,
Thoát vòng khổ não, vượt ra luân hồi.

8. Hằng ngày rải khắp các nơi,
Bốn phương tám hướng gầm trời bao la.
Tấm lòng bác ái vị tha,
Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.
Lòng từ trong sạch như gương,
Không pha ác cảm không vương tư thù.

9. Cố tâm niệm niệm công phu,
Khi đi, khi đứng, chuyên tu tham thiền.
Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên,
Sưu tầm đạo quả, gieo duyên Niết Bàn
Ðó là phương pháp thế gian,
Ðó là hạnh kiểm đưa đàng Vô sanh.
Thánh nhân ca tụng tán thành,
Xuôi dòng thánh vức, lữ hành Nhập lưu (Tu Ðà Hườn).

10. Vượt lên đến mức thắng ưu,
Khai thông tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu.
A Hàm đạo tuệ gươm mầu,
Ðoạn tuyệt tà kiến, xả câu dục tình.
Bất lai cảnh giới hữu hình,
Phạm thiên tạm ngự, nghiêm minh Niết Bàn.

KHANDHAPARITTA GĀTHĀ

Virū pakkhehi me mettaṃ
mettaṃ erāpathehi me
chabyāputtehi me mettaṃ
mettaṃ kanhāgotamakehi ca
apādakehi me mettaṃ
mettaṃ dipādakehi me
catuppadehi me mettaṃ
mettaṃ bahuppadehi me
māmaṃ apādako hiṃsi
māmaṃ hiṃsi dipādako
māmaṃ catuppado hiṃsi
māmaṃ hiṃsi bahuppado.

Sabbe sattā sabbe pāṇā
sabbe bhū tā ca kevalā
sabbe bhadrāni passantu
mā kiñci pāpamāgamā.

Appamāṇo Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho
pamāṇa vantāni siriṃsapāni ahivicchikā satabadī uṇṇānābhī sarabū mū sikā katā me rakkhā katā me parittā paṭikkamantu phū tāni.

So haṃ namo Bhagavato namo sattannaṃ Sammāambuddhānam’ti.

ANANTARIYA GĀTHA

Sīrasmiṃ me Buddhaseṭṭho
Sāriputto ca dakkhiṇe
Vāma aṃ se Moggallāno
Purato piṭakattayaṃ .
Pacchime mama Aanando
Catuddisā khīnāsavā
Samantā lokapālā ca
Indadeva sabrahmakā
Etesaṃ anubhāvena
Sabbe bhayā upaddavā
Aneka antarāyāpi
Vinassantu asesato.

DASADISĀBUDDHASUTTA (KINH THẬP PHƯƠNG PHẬT)

1. Padumuttaro ca purabbāyaṃ
2. Āganeyye ca Revato
3. Dakkhine Kassapo Buddho
4. Haratiye ca Sumaṅgalo
5. Pacchime Buddha Sikhī ca
6. Bāyabbe ca Medhaṅkaro
7. Uttare Sakyamunī ceva
8. Isāne Saranaṅkaro
9. Kakusandho paṭhaviyaṃ
10. Ākāse ca Dīpaṅkaro

11. Ete dasadisābuddhā
Rājadhammassa pū jitā

12. Natthi rogabhayaṃ khemaṃ
Asokaṃ sampattidāyakaṃ
Dukkharogabhayaṃ natthi
Sabbā sattū viddhaṃ sentu

KINH THẬP PHƯƠNG PHẬT

1. Con xin đảnh lễ đức Phật Thượng-Liên- Hoa ở hướng đông
2. Con xin đảnh lễ đức Phật Li-Bà-Ða ở hướng đông nam
3. Con đảnh lễ đức Phật Ca-Diếp ở hướng nam
4. Con xin đảnh lễ đức Phật Phước-Toàn-Ða ở hướng tây nam
5. Con xin đảnh lễ đức Phật Tỳ-Khí ở hướng tây
6. Con xin đảnh lễ đức Phật Mỹ-Thắng-Ca ở hướng tây bắc
7. Con xin đảnh lễ đức Phật Thích-Ca-Mâu- Ni ở hướng bắc
8. Con xin đảnh lễ đức Phật Bảo-Trì-Ca ở hướng đông bắc
9. Con xin đảnh lễ đức Phật Câu-Lưu-Tôn ở hướng dưới
10. Con xin đảnh lễ đức Phật Nhiên-Ðăng ở hướng trên

11. Ấy mười phương Chư Phật
Cúng dường bậc Pháp Vương

12. An ổn, không bệnh tai
Không sầu, hưởng bổng lộc
Chẳng khổ, bệnh, sợ hãi,
Mọi cừu địch ắt giải.

SƯU TẬP CÁC BÀI KỆ

MAHA JĀYAMANGALA GĀTHĀ

1. Mahākāruṇiko nātho
Hitāya sabba pāṇinaṃ
Pū retvā pāramī sabbā
Patto sambodhi muttamaṃ
Etena sacca vajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

2. Jayanto bodhiyā mū le
Sakyānaṃ nandivaddhano
Evaṃ mayhaṃ jayohotu
Jayassu jayamaṅgalaṃ

3.Sakkatvā buddha ratanaṃ
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Hitaṃ deva manussānaṃ
Buddha tejena sotthinā
Nassantu’ paddavā sabbe-
Dukkhāvū pasamentu me.

4. Sakkatvā dhamma ratanaṃ –
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Parilāhū pasamanaṃ –
Dhamma tejena sotthinā
Nassantu’ paddavā sabbe-
Bhayāvū pasamentu me.

5. Sakkatvā saṅgha ratanaṃ –
Osadhaṃ uttanaṃ varaṃ
Āhuṇeyyaṃ pāhuneyyaṃ –
Sangha tejena sotthinā
Nassantu’ paddavā sabbe-
Rogāvū pasamentu me.

6. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ buddha samaṃ natthi-
Tasmā sotthī bhavantu me.

7. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ dhamma samaṃ natthi-
Tasmā sothī bhavantu me.

8. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ saṅgha samaṃ natthi-
Tasmā sotthī bhavantu me.

9. Natthime saraṇaṃ aññaṃ –
Buddho me saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

10. Natthi me saranaṃ aññaṃ –
Dhammo saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jāyamangalaṃ .

11. Natthi me saranaṃ aññaṃ –
Saṅgho saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jayamaṅgalaṃ

12. Sabbītiyo vivajjantu-
Sabbarogo vinassatu
Mā me bhavatvantarāyo-
Sukhī dīghāyuko bhava.

13. Bhavatu sabbamangalaṃ –
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbabuddhānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

14. Bhavatu sabbamangalaṃ –
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbadhammānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

15. Bhavatu sabbamangalaṃ –
Rakkhantu sabbadevatā
Sabba sanghānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

16. Nakkhatta yakkha phū tānaṃ
Pāpaggaha nivāranā
Parittassānubhāvena
Hantu mayhaṃ upaddave.

17. Devo vassatu kālena-
Sassa sampatti hotu ca
Phīto bhavatu loko ca-
Rājā bhavatu dhammiko.

18. Sabbe buddhā balappattā
Paccekānañca yaṃ balaṃ
Arahantānañca tejena
Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso.

NARASĪHA – GĀTHĀ

1. Cakka varaṅkita rattasupādo
Lakkaṇamaṇdita āyatapaṇhi
Cāmarachatta viphū sitapādo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

2. Sakyakumāravaro sukhumālo
Lakkhaṇavitthata puṇṇasarīro
Lokahitāya gato naravīro
Esa hi tuyha pitā narasīho.

3. Puṇṇasasaṅkanibho mukhavaṇṇo
Devanarāna piyo naranāgo
Mattagajinda vilāsitagāmi
Esa hi tuyha pitā narasīho.

4. Khattiyasambhava aggakulīno
Devamanussa namassitapādo
Sīlasamādhi patiṭṭhitacitto
Esa hi tuyha pitā narasīho.

5. Aayatatuṅga susaṇthita nāso
Gopamukho abhinīla sunetto
Indadhanū abhinīla bhamưkho
Esa hi tuyha pitā narasīho.

6. Vaṭṭa sumaṭṭa susanthitagīvo
Sīhahanū migarājasarīro
Kāñcana succhavi uttama vaṇṇo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

7. Suniddha sugambhira mañjusu- ghoso
Hiṅgulabandhu surata sujivho
Vīsati – vīsati – seta sudanto
Esa hi tuyha pitā narasīho.

8. Añjanavaṇṇa – sunīla – sukeso
Kañcanapaṭṭa – visuddhalalāto
Osadhi paṇḍara suddhasuṇṇo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

9. Gacchati nīlapatheviya cando
Tāragaṇā parivethitarū po
Sāvakamajjhagato samanindo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

Nghĩa:

ANH HÙNG KỆ

Tức kệ Hùng sư nhân (Narasīha gāthā) do công nương Da-du-đà-la chỉ dạy Thái tử La-hầu-la về đức tướng (Lakkhana sutta) của Ðức Thế Tôn, khi Ngài đang bộ hành qua các nẻo đường trong thành Ca tì la vệ, với đoàn Thánh chúng.

1. Ðầu bàn chân son quí nổi dấu in bánh xe thiêng,
Tha thướt gót dài thon trổ lắm văn chỉ diệu huyền,
Lòng bàn chân tô sẵn chổi phất tử với lọng tiên,
Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!

2. Dòng Sakya kiêu dũng, tánh quân tử ưa tịnh yên,
Phong thái đại trượng phu, tướng tốt thân thảy hiện tiền,
Thường ra tay anh tuấn, cứu thế chúng đủ thiện duyên.
Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!

3. Tròn đầy gương trăng sáng, nhan sắc xinh rõ đẹp tươi,
Ai nấy cũng đều yêu chúa tượng chung giữa trời người,
Ngài dường voi giống quí, dáng đứng đi khéo tự nhiên,
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của Thánh hiền!

4. Ngài dòng sang, tông quí, cấp “Khatti” [*] của hoàng gia.
Nên khiến cả nhân thiên lễ dưới chân chẳng nệ hà,
Ngài thường xuyên tỉnh giác, tuệ tâm đủ giới, thiền na,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

[*] Khatti: Bắc Phạn là Ksatri(Xá tri), Tàu âm là Sát đế lỵ tức chiến sĩ. Sakya: Tàu âm là Thích Ca.

5. Dài và cao, thẳng đứng, mũi khác chi mũi Hằng nga,
Mắt biếc tợ bò tơ, khuất dưới nheo mượt nõn nà,
Mày Ngài xanh xanh thẫm, thể cái mống tận trời xa,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

6. Tròn đều, trơn, mịn mát, cổ khoáng đạt, và hào hoa,
Thân với quai hàm vua, chúa sơn lâm khó sánh qua,
Vàng ròng tuy chất tốt, nước sang kém thua màu da,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

7. Dịu trầm sâu, êm ấm, tiếng thuyết ngân giống đồng chung,
Khi hé mở làn môi, lộ lưỡi son đượm ánh hồng,
Hàng đôi răng ngọc trắng, bốn chục cái đủ trọn nguyên,
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

8. Toàn màu xanh như thuốc nhỏ mắt đau, tóc đậm đen!
Như bát mĩ vàng tây đánh bóng trơn trán phẳng liền!
Bạch hào [*] như sao sớm, rực rỡ chói lúc tàn đêm.
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

[*] Chòm lông trắng giữa hai chân mày của Ðức Phật.

9. Dường vầng trăng đi trước, soi mở lối giữa trời đêm,
Ðông đủ các vì sao nối gót theo bóng ngọc thiềm [*]
Kìa Sa môn Giáo chủ dẫn Tăng chúng bước nhẹ êm
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

[*] Con cóc ngọc, ám chỉ mặt trăng.

(Tỳ khưu Pháp Minh dịch)

BUDDHAPĀDANĀMAKKĀRAGĀTHĀDVADASAPARITTA,
trích ở kinh tụng Paritta 12 bộ của Miên văn.

Vandāmi Buddhaṃ bhavapāratiṇṇaṃ
Tiloka ketuṃ tibhaveka nāthaṃ
Yo lokaseṭṭho sakalaṃ kilesaṃ
Chetvāna bodhesi jānaṃ anantaṃ
Yaṃ Nammadāya nadiyā puline ca tīre,
Yaṃ Saccabandhagirike sumanā ca lagge,
Yaṃ tattha Yonakapure munino ca pādaṃ
Taṃ pādalañchanamāhaṃ sirasā- namāmi:
Suvaṇṇamālike;
Suvaṇṇapabbate;
Sumanakū ṭe;
Yonakapure;
Nammadāya nadiyā
Pañca pādavaraṃ ṭhānaṃ, ahaṃ vandāmi dū rato.

Nghĩa:

KỆ LỄ PHẬT – TÍCH

1. Thành tâm con đảnh lễ Ðức Phật Tổ Gotama,
2. Cái-thế đại hùng anh, biển khổ đau, đã băng qua.
3. Còn nêu trong tam giới, chỗ quy-ngưỡng của quần sanh,
4. Phiền não đoạn trừ xong, giác ngộ tâm đến Vô – sanh.
5. Thành tâm con đảnh lễ những Thánh- tích Sakya,
6. Lưu dấu tại trần gian đủ năm noi Phật trải qua:

Một là trên bãi cát kế mé sông Nammāda;
Hai, ở tận đầu non Suvaṇṇa – mālika;
Ba là trên đảnh núi Suvaṇṇa Pabbata;
Bốn là trên thượng đảnh núi Sumana- konta;
Năm, ở trong thành đô hiệu Yonakapurī.

7. Thành tâm con đảnh lễ năm dấu chân Ðức Mâu – ni;
8. Châu báu khắp trần gian xét kỹ ra thật khôn bì.

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch)

KHAGGAVISĀṆA SUTTA – TÊ GIÁC KINH

1. Bỏ đao trượng xa lìa vũ khí
Không còn gây khổ lụy quần sanh
Không con không bạn đồng hành
Thà như tê giác một mình ra đi…

2. Sống chung chạ ít gì luyến ái?
Xưa ái tình, nay lại sầu tình,
Thấy rồi tội khổ tình si,
Thà như tê giác một mình ra đi…

3. Gần bạn hữu, từ bi phát khởi
Vì thương ai bỏ lợi chính mình
Thấy điều giao hợp mà kinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

4. Vợ con khỏi bao vây bịn rịn
Như cây to tàn nhánh rợp xanh
Măng lên suông đuột chẳng cành
Thà như tê giác một mình ra đi…

5. Nay rừng nọ không chi buộc trói
Muốn ăn đâu lui tới thích tình
Thanh nhàn thay, bậc cao minh
Thà như tê giác một mình ra đi…

6. Ðược mời thỉnh, khi thì giữa bạn
Lúc vân du, lúc hoãn hành trình
Tự thân nào thấy an bình
Thà như tê giác một mình ra đi…

7. Nỗi khoái lạc đòi khi họp bạn
Tình yêu con phương quảng dễ kinh
Ái ly là khổ cực hình
Thà như tê giác một mình ra đi…

8. Biết tri túc, rày đây mai đó
Bốn phuơng xa, nào có bất bình
Ðối đầu hiểm họa chẳng kinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

9. Khó cầm cọng xuất ly một bậc
Thí chủ ơi, lui bước gia đình
Nhân luân người đã trọn tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

10. Lá đã rụng mong gì mọc nữa?
Tắt lịm rồi hương lửa ba sinh
Hùng hào đoạn thế gian tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

11. Nếu gặp bạn trí tri cao kiến
Hãy đẹp lòng chí nguyện cộng sinh
Vượt bao hiểm họa đành hanh
Thà như tê giác một mình ra đi…

12. Chẳng gặp bạn trí tri cao kiến
Ðể đẹp lòng chí nguyện cộng sinh
Vua từ ngôi, bỏ đế kinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

13. May gặp bậc trí tri xứng đáng
Hơn hay bằng, kết bạn đồng hành
Bằng không cứ sống trọn lành
Thà như tê giác một mình ra đi…

14. Ðã thấy xuyến vàng y rực rỡ
Khua động theo nhịp cổ tay xinh
Dễ gì hai chiếc lặng thinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

15. Có đôi bạn càng gây vướng bận
Tiếng lại qua tranh luận bất bình
Thấy gương trước mắt mà kinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

16. Tánh hảo ngọt, thích mùi dục lạc
Tâm động vì vô sắc, hữu hình
Ngủ trần tội khổ chẳng khinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

17. Như ung nhọt, cơ nguy, bịnh tật
Ðòn xóc chờ ta, thật dễ kinh
Ngũ trần hiểm họa đành rành
Thà như tê giác một mình ra đi…

18. Nóng, lạnh, đói, khát gì chẳng quản
Rắn, muỗi, mòng, mưa, nắng thình līnh
Vượt qua trên khắp lộ trình
Thà như tê giác một mình ra đi…

19. Như voi chúa, xả ly đoàn tượng
Ẩn rừng sâu vui sướng thỏa tình
Thân vàng, sen báu lịch xinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

20. Không thuận cảnh vui gì hợp mãi?
Cứ theo lời của Thái Dương huynh
Thoát ly tạm lánh gia đình
Thà như tê giác một mình ra đi…

21. Tuồng ảo hóa có chi đâu lạ?
Lý đạt rồi Ðạo quả phát sinh
Việc vô minh đã liễu minh
Thà như tê giác một mình ra đi…

22. Chẳng tham quấy dối khi thèm khát
Không dèm pha, sạch cát bùn sình
Nào mong thế nghiệp kinh dinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

23. Tự thân quyết xa lìa bạn ác
Lý không thông khó đắc tâm bình
Dễ duôi, ai dại kết tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

24. Bậc quảng kiến hành trì pháp chánh
Thông lý huyền dứt mạnh nghi tình
Nếu không được kết bạn lành
Thà như tê giác một mình ra đi…

25. Thú trần tục vui chi lợi dưỡng
Thôi mơ màng sắc tướng âm thinh
Ngữ ngôn thu thúc, chân thành
Thà như tê giác một mình ra đi…

26. Kìa phụ mẫu, thê nhi thúc phọc
Nọ của tiền, lúa thóc vây quanh
Dục trần, giả biệt phân minh
Thà như tê giác một mình ra đi…

27. Bả dục lạc ham chi bám níu?
Càng ham vui, càng chịu khổ hình
Lý chân, nhận thức đành rành
Thà như tê giác một mình ra đi…

28. Mười kiết sử trùng vi bị xé
Lưới rách tung, cá lẹ thoát sinh
Xa nơi rừng lửa dục tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

29. Mắt ngó xuống tư duy từng bước
Giữ lục căn, khử trược lưu thanh
Lửa tình, tham ái không sanh
Thà như tê giác một mình ra đi…

30. Bỏ gia thế xuất ly hành đạo
Ðắp cà sa, đầu cạo tóc xanh
Lá vàng nay đã lìa cành
Thà như tê giác một mình ra đi…

31. Khỏi nuôi ai, vô vi, vô dục,
Ðối vị trần, tri túc trì bình
Tâm không luyến khách gia đình,
Thà như tê giác một mình ra đi…

32. Năm pháp cái với tùy phiền não
Ðã dứt rồi, tâm đáo đại hành
Diệt luôn sân hận ái tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

33. Quay lưng lại bỏ vui và khổ
Tiền hỉ ưu, đắc độ xả bình
“Chỉ” rồi tâm hảo tịnh thanh
Thà như tê giác một mình ra đi…

34. Tinh cần đạt tế vi Chân đế
Giải thoát tâm, cùng giới tuệ minh
Hùng tài, đại lực viên thành
Thà như tê giác một mình ra đi…

35. Chốn cô tịch, kiên trì thiền định
Tâm thường xuyên đeo dính Pháp minh
Luân hồi quán thấy cảm kinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

36. Chuyên cần nguyện xả ly Ái dục
Mặc nhiên thường nghe học, nhớ rành
Rán hành đắc pháp Vô sanh,
Thà như tê giác một mình ra đi…

37. Hùng sư há sợ chi tiếng động?
Gió lòn qua lỗ trống lưới mành,
Ao bùn sen vẫn lịch thanh
Thà như tê giác một mình ra đi…

38. Nhờ nanh vuốt cực kỳ dũng mãnh
Hùng sư làm chúa cảnh rừng xanh
Thảnh thơi vui thú độc hành
Thà như tê giác một mình ra đi…

39. Từ, Xả, Hỉ và Bi giải thoát
Niệm thường thường đồng loạt liên minh
Tâm bình, thế giới hòa bình
Thà như tê giác một mình ra đi…

40. Tham với Sân và Si dứt tuyệt
Kiết sử tan vĩnh biệt Vô minh
Ðiềm nhiên chẳng sợ Tử sinh
Thà như tê giác một mình ra đi…

41. Sum họp khó quyết nghi Chơn giả
Lìa bạn bè, lợi ngã phân minh
Xả ly thế tục, phàm tình
Thà như tê giác một mình ra đi…

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch)

DASA KĀMAGUṆA – TỘI NGŨ TRẦN

1. Ngũ trần như khúc xương không,
Mà con chó đói cố công gậm lỳ.

2. Ngũ trần như thịt tử thi,
Qua tranh nhau mổ kể gì thúi tha.

3. Ngũ trần như đuốc rơm phà,
Cầm đi ngược gió ắt là phỏng tay.

4. Ngũ trần hầm lữa đỏ gay,
Sa chân xuống đó hằng ngày khổ đau.

5. Ngũ trần tợ giấc chiêm bao,
Thấy rồi liền mất dễ nào bền dai.

6. Ngũ trần như vật mượn xài,
Xài xong phải trả giữ hoài được sao?

7. Ngũ trần như trái chín cao,
Nại cây gãy nhánh vỡ đao thợ rừng.

8. Ngũ trần lao kiếm sáng trưng,
Phạm nhầm ắt khổ mựa đừng dễ duôi.

9. Ngũ trần dao thớt đủ đôi,
Người mê đắm bị bầm nhồi nát tan.

10. Ngũ trần đầu rắn hổ mang,
Có hai túi nọc lại càng dễ kinh.

Ai tu nấy liệu giữ mình,
Mười điều tội khổ đinh ninh chớ sờn.

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch.)

KỆ CỦA ÐẠI ÐỨC SARIPUTTA

Ðây là bài kệ của Ðại Ðức Sariputta (Xá-Lợi-Phất) đọc lên cổ xúy chúng ta, bất cứ lúc nào, hoặc trong hoàn cảnh nào, cũng nên đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Tam Bảo.

“Hãy trương cao ngọn cờ Chân lý!
Hãy hoằng dương Chánh Pháp cao minh
Những lúc bàn tay kinh khủng
Lạnh lùng siết chặt tim ta,
Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh,
Vì như ta, họ cũng run sợ hãi hùng.

“Giữa rừng già hiu quạnh, trong bóng tối trậptrùng,
Khi ngọn đèn hy vọng lao chao muốn tắt;
Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh;
Vì như ta, ánh sáng họ cũng tàn.

“Trong giờ phút lâm ly hấp hối,
Lời nghẹn giữa đôi môi, lệ trào như suối.
Ðừng tưởng đến Chư thiên, Thần thánh,
Vì như ta, họ cũng nhỏ lệ biệt ly.

“Hãy ngước mắt lên:
Nhìn ngọn cờ Tam Bảo!
Tưởng nhớ đến Ðức Thế Tôn, bậc chiến thắng oai hùng,
Ðến Chánh Pháp, ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu,
Ðến Tăng Già,tập đoàn giới tịnh đức cao.
Hỡi đạo hữu!
Là chiến sĩ giữa quân thù “phiền não”,
Mắt đừng lìa ngọn Tam Bảo uy kỳ,
Tâm đừng xa ân đức Phật – Pháp – Tăng,
Hãy dũng tiến trên con đường “Giải Thoát”.

MORAPARITTA

Udetayañcakkhumā (Apetayañcak-khumā) ekarājā
harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ

Tayajja guttā viharemu divasaṃ (rattiṃ)
ye brahmaṇā vedagu sabbadhamme
te me namo te camaṃ palāyantu
namatthu Buddhānaṃ namatthu bodhiyā
namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā
imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā. (vāsamakappayīti)

Nghĩa:

KHỔNG TƯỚC KINH

Mặt trời ánh sáng như vàng
Chiếu trong thế giới khắp tràn bốn châu
Tự do soi cả đâu đâu
Là tròng con mắt hoàn cầu sanh linh
Cho nên tôi mới nghiêng mình
Cúi đầu cung kỉnh tỏ trình Ân cao
Các Ngài luân chuyển cùng nhau
Thay phiên trị nhật vị nào ngày nay
Chúng tôi ở dưới quyền nầy
Xin nhờ ủng hộ ngày rày an vui
Làm cho ác độc phai phui
Cho dù oan trái mưu thù cũng hư
Thiền tăng đạo sĩ các Sư
Tu hành đắc pháp hoặc cư xa gần
Từ bi soi đến kẽ cần
Biết nay tôi kỉnh tự thân yêu cầu
Nương nhờ quyền lực phép mầu
Ðặng cho tránh khỏi nạn sầu ngày nay
Phạm thiên, Thiên chúng các Ngài
Thọ tôi kỉnh lạy hiện nay xin tường
Bảo tồn khỏi sự bất lương
Trọn ngày cho được tránh đường họa tai
Cúi đầu lạy cả Như Lai
Các hàng Bồ tát chư Ngài Thánh Tăng
Với cùng Pháp Bảo siêu thăng
Ngày nay nhớ tụng để ngăn các điều.

(Tỳ khưu SANTAKICCO dịch)

PHỤC NGUYỆN

Phước lành tôi đã tạo ra
Các đời quá khứ hay là đời nay
Nghiệp chưa cho quả phước nào
Nguyện thành Pháp Ðộ để vào thiện căn
Sau nầy dù tạo mấy lần
Từ đây cho đến siêu thăng Niết Bàn
Hể làm chuyện tốt sẵn sàng
Mỗi điều hạnh phúc thành đoàn Nhân Duyên
Giúp cho phiền não sớm yên
Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau
Nếu trể chẳng gặp Phật nào
Nhằm kỳ Ðộc Giác làm sao cũng thành.

THẬP NGUYỆN

Nguyện cầu Tam – Bảo từ hằng độ,
Nguyện thoát ba tai nước, lửa, binh,
Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết,
Nguyện cho nhân loại ráng tu hành
Nguyện gìn tam học Giới – Ðịnh – Tuệ
Nguyện đoạn Tham – Sân – Si độc sanh
Nguyện giải căn nhân Sanh Tử khổ
Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh
Nguyện tu tinh tấn không giải đảy
Nguyện sao đạo quả sớm viên thành.

BÀI CẦU CHƯ THIÊN

Chí thành miệng vái tâm cầu
Chư Thiên lớn nhỏ bất câu bậc nào
Bốn tầng Sắc Giới rộng cao
Xin nghe hiểu biết hiện vào trợ duyên
Ðặng tâm sáng kiến phát liền
Biết nơi đáng sắp bày tuyên vừa người
Dầu ai cản sái luận dư
Chuyển lòng tinh tấn ngăn trừ sự lui
Chư Thiên Dục Giới hưởng vui
Vừa nghe cầu khẩn, tạm ngừng xét qua
Từ trời Tha Hóa cao xa
Ðến cung Ðạo Lợi bao la năm tầng
Giàu lòng bác ái thọ xưng
Thảy đều bố cáo chuyển luân sắp bày
Vị nào hoan hỷ cầu đây
Ra ân trợ giúp chẳng chầy mau xong;
Hiện nay tôi rất hết lòng
Mong cho Thiên Tướng oai phong Bốn Ngài
Thường luôn an lạc vui thay
Tránh xa khổ não hằng ngày tiến lên
Ðặng ngôi Nguyên Soái vững bền
Lòng từ ủng hộ các nền Giáo chân
Chẳng nài khó nhọc ra ân
Chúng tôi hữu sự có nhân nên cầu
Vì e công chuyện trể lâu
Làm cho nhiều kẻ hao sầu thân tâm
Nhờ Ngài xuống lịnh quyền thâm
Chư Thiên lòng tốt quang lâm giúp thành
Rất là ân trọng cao thanh
Chúng tôi hồi hướng phước lành kính dâng.
Chư Thiên lớn nhỏ các tầng
Tùy hỷ công đức đồng mừng trợ chuyên.

(Tỳ khưu SANTAKICCO dịch)

Add Comment